Tìm kiếm tin tức
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ QUẢNG THÁI( 1930-2020): Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÃ QUẢNG THÁI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
Ngày cập nhật 28/03/2022

Chương 3

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XàQUẢNG THÁI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

3.1. Quảng Giang (Quảng Thái) trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng và phát triển tổ chức Đảng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài (9-1945 - 12-1946)

3.1.1. Tình hình xã Quảng Giang (Quảng Thái) sau Cách mạng tháng Tám

Với thắng lợi lịch sử của Cách mạng tháng Tám, ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Phấn khởi và tự hào được làm người dân của một nước độc lập, các tầng lớp nhân dân xã Quảng Giang dưới sự lãnh đạo của Đảng đã ra sức xây dựng chính quyền mới và cuộc sống mới.

Sau Cách mạng tháng Tám, ở Thừa Thiên Huế, hệ thống chính quyền cách mạng từ cấp tỉnh cho đến huyện, xã và thành phố đã nhanh chóng được thiết lập, kiện toàn và đi vào hoạt động. Các đơn vị hành chính sau đó cũng được sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình mới. Trong dịp này, theo chỉ thị của trung ương, một số xã, thôn hợp lại thành xã lớn trực thuộc huyện, bãi bỏ cấp tổng.

Chính quyền đã thuộc về tay nhân dân, nhưng cách mạng đang đứng trước tình thế hiểm nghèo chẳng khác gì “ngàn cân treo đầu sợi tóc”. Nạn đói năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra vẫn còn đe dọa tiếp diễn. Xã Quảng Giang (Quảng Thái) có diện tích đồng ruộng khá lớn, nhưng địa hình thấp trũng, đất cát chiếm diện tích lớn, thuần nông, nên trong điều kiện chung của cả nước đời sống nhân dân nơi đây vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, nạn thiếu thốn lương thực khiến nhiều người dân bị chết đói. Ngoài ra, những di hại của một nền giáo dục nô dịch do thực dân để lại cũng rất nặng nề với hơn 90% dân chúng bị mù chữ, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, mê tín dị đoan còn rất phổ biến.

Trong lúc những khó khăn về kinh tế xã hội đang diễn ra gay gắt thì họa thù trong, giặc ngoài đe dọa nghiêm trọng đến chế độ mới. Núp dưới danh nghĩa quân đồng minh vào tước vũ khí quân đội phát xít Nhật, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra. Đầu tháng 9-1945, 5.000 quân Tưởng đến Huế. Đi đến đâu chúng cũng gây ra những cảnh cướp bóc, lại dùng đồng Quan Kim đã mất giá để mua hết lương thực, thực phẩm đang rất thiếu thốn. Bên cạnh quân Tưởng, hơn 4.500 quân Nhật với đầy đủ vũ khí vẫn còn ở Huế, đang chờ ngày giải giáp cũng tìm cách gây xung đột với tự vệ của ta.

Ở Quảng Giang, lợi dụng những khó khăn của ta, một số nhóm phản động địa phương đã tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng, gây chia rẽ trong nhân dân, xuyên tạc chính sách của Mặt trận Việt Minh.

Tháng 3-1946, khi quân Tưởng Giới Thạch rút về nước theo Hiệp ước Hoa - Pháp (28-2-1946), thì lập tức ở Huế có mặt 850 quân Pháp với trang bị vũ khí hiện đại (xe bọc thép, pháo tự hành...) do viên quan năm Coste chỉ huy, cộng với hơn 400 sĩ quan, binh lính và nhân viên Pháp có từ trước được vũ trang đầy đủ. Xã Quảng Giang nằm ở trung tâm đồng bằng Phong - Quảng nên ngay từ những ngày đầu, thực dân Pháp đã cho xây dựng nhiều đồn bốt và đưa quân đến chiếm giữ.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên Quảng Giang tuy được tôi luyện trong lò lửa đấu tranh cách mạng, chính quyền đã được thiết lập, nhưng việc quản lý xã hội là còn mới mẻ, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm; chính vì vậy mà những khó khăn ban đầu không thể tránh khỏi. Trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng sự bám chắc vào dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân, tuân thủ sự chỉ đạo của Huyện ủy Quảng Điền, cán bộ, đảng viên xã Quảng Giang với ý chí cách mạng kiên cường, với tinh thần đoàn kết keo sơn đã quyết tâm vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, giữ vững thành quả Cách mạng tháng Tám, xây dựng và bảo vệ chính quyền.

3.1.2. Công cuộc củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng và phát triển tổ chức Đảng, chuẩn bị kháng chiến

Ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách nhằm ổn định đời sống nhân dân, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng; sau đó, Người khái quát thành ba nhiệm vụ trọng tâm là diệt giặc dốt, diệt giặc đói và diệt giặc ngoại xâm.

Tháng 9-1945, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, Huyện ủy Quảng Điền được thành lập do đồng chí Trần Bá Song làm Bí thư kiêm Chủ nhiệm Việt Minh và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Công việc quan trọng trước tiên là tổ chức xây dựng chính quyền cách mạng. Thành phần của chính quyền mới chưa thực sự đại biểu cho nhân dân lao động, có mặt cả những người trước đây từng tham gia chính quyền địch ở làng xã, một số khác là những người chưa thật sự tiêu biểu cho phong trào cách mạng. Thành phần chính quyền như vậy tạm thời có lợi trong thời gian đầu, thể hiện được sự tranh thủ các tầng lớp nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, giảm bớt sự chống đối của kẻ thù. Tuy nhiên, tình trạng này không thể tồn tại trong một thời gian dài.

Để tăng cường công tác quản lý xã hội và chính thức hóa bộ máy chính quyền cách mạng ở cơ sở; đầu năm 1946, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Quảng Điền triệu tập Hội nghị gồm đại biểu các làng bàn việc hợp nhất và thành lập đơn vị hành chính cấp xã. Hội nghị nhất trí xóa bỏ đơn vị hành chính cấp tổng và làng. Huyện Quảng Điền từ 5 tổng Khuông Phò, Thanh Cần, Phước Yên, Hạ Lang, An Thành được tổ chức lại thành 12 xã: Quảng An, Quảng Thành, Quảng Phước, Quảng Đức (Quảng Thọ), Quảng Thắng, Quảng Lợi (Quảng Vinh), Quảng Vinh, Quảng Xuyên (Quảng Phú), Quảng Sĩ (Quảng Phước), Quảng Giang (Quảng Thái), Quảng Tín (Quảng Lợi), Quảng Ngạn (Quảng Ngạn và Quảng Công hiện nay)[1]. Các phe, giáp (hay xóm) trở thành đơn vị hành chính cấp thôn.

Xã Quảng Giang gồm 10 thôn Phú Ân, Phú Lễ, Lai Hà, Đông Hồ, Trung Kiều, Nam Giảng, Đông Cao, Trằm Ngang, Tây Hoàng, Gia Quảng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Quảng Giang (xã Quảng Thái hiện nay) gồm có: Tú tài Lê Tư Kiêm làm Chủ tịch, Trần Quyền làm Phó chủ tịch và các ủy viên Phạm Bá Khác (thư ký), Nguyễn Địch (tài chính), Lê Ngôn (quân sự), Văn Đình Triền (thông tin tuyên truyền). Ủy ban Mặt trận Việt Minh xã Quảng Giang gồm có Hoàng Liệu làm Chủ nhiệm, Văn Tuy làm Phó chủ nhiệm và Trần Khang làm thư ký[2].

Cùng với việc củng cố hệ thống chính quyền, tổ chức Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng cũng nhanh chóng được thành lập. Các tổ chức Hội Phụ lão cứu quốc, Đội Thiếu niên tiền phong, Hội Nhi đồng,… có nhiều hoạt động phong phú. Chính nhờ hoạt động của các đoàn thể quần chúng mà chính quyền cách mạng đã giải quyết tốt những khó khăn trước mắt, tăng cường thêm khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần làm cho nhân dân xã Quảng Giang gắn bó với cuộc sống mới, tin tưởng vào Đảng và chính quyền hơn.

Chính quyền cách mạng hết sức coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ chính quyền, bảo vệ cuộc sống mới của nhân dân, chống lại âm mưu của kẻ thù. Hầu hết các thôn, xã đều có dân quân tự vệ, trang bị vũ khí tuy còn rất thô sơ, chủ yếu là giáo mác, gậy gộc nhưng anh chị em dân quân vẫn hăng hái luyện tập ngày đêm, tuần tra canh gác, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm và sẵn sàng tham gia hỗ trợ chiến đấu. Vì vậy, trên địa bàn Quảng Giang vấn đề an ninh chính trị được giữ vững, không có Việt gian phản động và địa chủ lớn. Có thể nói, sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền cách mạng, các đoàn thể quần chúng và lực lượng dân quân tự vệ Quảng Giang nhanh chóng hình thành và phát triển, là điều kiện cơ bản nhất để nhân dân thực hiện khẩu hiệu “kháng chiến, kiến quốc”.

Bên cạnh việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ thôn xóm, đầu năm 1946, nhiều thanh niên Quảng Giang còn hăng hái tham gia Vệ quốc đoàn, tiêu biểu như đồng chí Văn Đình Song. Ngoài ra, xã Quảng Giang còn động viên một số người khác tham gia đội cảm tử quân.

Trên mặt trận cứu đói, dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng, nhân dân các xã trong huyện đã triệt để thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Các đoàn thể quần chúng của xã đã động viên nhân dân “nhường cơm sẻ áo”, “đồng cam cộng khổ” để vượt qua những ngày đói kém. Phong trào quyên góp, tổ chức “hũ gạo cứu quốc”, “bữa ăn đồng tâm”,... được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau. Một số gia đình địa chủ cũng được vận động ủng hộ cách mạng, tham gia hiến đất, hiến lúa, nấu cháo cứu đói cho dân nghèo... Nhờ tinh thần đoàn kết của nhân dân nên chỉ sau một thời gian ngắn, số lượng lương thực quyên góp được đã bước đầu giúp đẩy lùi dần nạn đói.

So với các xã trong toàn huyện, Quảng Giang là một trong những xã gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để giải quyết nạn đói tận gốc thì phải “tăng gia sản xuất! tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa”, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng” phong trào tăng gia sản xuất đã phát triển khắp nơi, nhân dân Quảng Giang đã tận dụng đất đai khai hoang phục hóa để mở rộng diện tích canh tác, tận dụng những rẻo đất ven đường, ven sông hồ để trồng khoai sắn, rau đậu, phủ kín những vạt đất còn hoang hóa. Chính quyền vận động nhân dân cấm nấu rượu và vận động không uống rượu, kêu gọi các gia đình tổ chức các nhóm vần công, đổi công... Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, nạn đói đã được giải quyết kịp thời, đời sống nhân dân tuy còn khó khăn nhưng đã có bữa cơm, bữa cháo, tích trữ được lương thực cho kháng chiến, giúp đỡ dân quân tự vệ luyện tập quân sự.

Gắn liền với phong trào chống giặc đói, chính quyền cách mạng cũng hết sức quan tâm đến việc tăng cường bồi dưỡng sức dân. Xã đã bãi bỏ chế độ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của thực dân phong kiến, tiến hành chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý, thực hiện những cải cách dân chủ, tự do tín ngưỡng, thực hiện nam nữ bình quyền. Nhân dân Quảng Giang đã đồng lòng hưởng ứng, tạo nên một không khí yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Cuộc sống mới đang thật sự nhen nhóm trong mỗi con người, mỗi gia đình. Những cải cách ban đầu này đã mang lại những lợi ích cho nhân dân, giúp nhân dân thấy rõ những giá trị của độc lập tự do.

Trên mặt trận chống giặc dốt, để dễ bề cai trị nhân dân ta, thực dân Pháp đã ráo riết thi hành chính sách ngu dân, nên sau cách mạng hơn 90% dân số mù chữ, đời sống cơ cực trăm bề. Ngày 4-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhân dân Quảng Giang đã dấy lên rộng khắp, liên tục phong trào bình dân học vụ. Các thôn trong xã trở nên nhộn nhịp, mọi gia đình động viên nhau học tập, nhiều người đã lớn tuổi thậm chí cả những cụ ông, cụ bà cũng động viên nhau đến lớp.

Người dạy là con em nhân dân ở các thôn, xã, cán bộ, thầy lý ít nhiều có trình độ văn hóa. Có khi người vừa mới biết đọc, biết viết dạy lại cho người chưa biết chữ. Nhìn chung, ở mỗi thôn đều tổ chức một lớp học, ban ngày ưu tiên cho các cụ già và thiếu niên, ban đêm dành cho thanh niên, phụ nữ. Lớp học được bố trí trong các nhà dân hoặc ở các nhà thờ họ, miếu phe, miếu xóm. Về điều kiện học tập, ngoài một ít giấy bồi và bút mà chính quyền cấp phát thì bà con cũng tự sáng tạo nhiều hình thức như dùng que viết hoặc dùng than để viết dưới đất... Các lớp được niêm yết kết quả kiểm tra công khai tại đầu cổng làng, nơi họp chợ. Phong trào bình dân học vụ ngày càng lôi cuốn toàn thể nhân dân tham gia và kéo dài cho đến ngày thực dân Pháp tái chiếm. Từ tháng 3-1947, nhân dân Quảng Giang tạm thời dừng tay bút để cầm súng đánh giặc. Dù chỉ duy trì được một thời gian, nhưng công tác “diệt giặc dốt” đã mang lại kết quả đáng phấn khởi, đa số nhân dân được xóa mù mặc dù phong trào này chưa thật sự vững chắc. Chính nhờ việc cuốn hút vào phong trào học tập văn hóa đó mà các tệ nạn xã hội, các tập tục lạc hậu dần dần bị xóa bỏ, cuộc vận động xây dựng đời sống mới có tác dụng trông thấy trong nhân dân. Mọi người phấn khởi thi đua lao động sản xuất và đóng góp cho cách mạng.

Về y tế, chăm lo sức khỏe cho nhân dân, xã cũng đã lập tủ thuốc để phục vụ bệnh nhân. Cán bộ chuyên môn ban đầu đó là y tá Niên, công tác diều dưỡng là Kim Anh; xã đã tổ chức các đợt cử người đi đào tạo y tá ở các tỉnh như Trần Quốc Bửu, Phạm Bá Lật, Hoàng Đực[3]...

Đứng trước những khó khăn tài chính của chính quyền cách mạng, nhân dân Quảng Giang vừa nhanh chóng ổn định cuộc sống mới vừa tích cực đóng góp. Mỗi gia đình đều ủng hộ Quỹ Độc lập do Chính phủ tổ chức, ai không có vàng thì đóng góp nồi đồng, chảo đồng. Hưởng ứng mạnh mẽ phong trào "tuần lễ vàng”, "tuần lễ đồng" từ ngày 17 đến 24-9-1945, nhân dân trong xã đã chủ động quyên góp những vật dụng như mâm, nồi, sanh, chảo, cơi trầu, trâm cài tóc ... bà Nguyễn Thị Đậu quyên góp một chiếc vòng kiềng, Nguyễn Thị Dương, Nguyễn Thị Duật quyên góp hoa tai vàng, anh Hồ Viết Chính quyên góp hai chiếc răng vàng,... Trong thời gian ngắn nhân dân trong xã đã quên góp được 700kg đồng, 3 lạng vàng, bạc vào Quỹ độc lập chuyển lên cấp trên[4]. Công tác quyên góp ủng hộ kháng chiến thực sự là một cuộc vận động cách mạng lớn trong nhân dân, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn sau trận đói đầu năm thì thật đáng quý.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, từ tháng 12-1945, công tác chuẩn bị bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng được tổ chức khẩn trương, nghiêm túc. Trên địa bàn Quảng Điền, các Ủy ban bầu cử ở các xã được thành lập. Lực lượng cán bộ, đảng viên xuống tận các thôn xóm để tổ chức tuyên truyền, phổ biến ý nghĩa cuộc Tổng tuyển cử, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân.

Hòa chung với không khí bầu cử của cả nước, Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã đã tiến hành tốt cuộc bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hội đồng nhân dân vào ngày mồng 6-1-1946. Cử tri Quảng Giang đã nhất trí với tỷ lệ cao bầu vào Quốc hội các đại biểu thuộc tỉnh Thừa Thiên với 5 vị Đoàn Trọng Truyến, Hoàng Anh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Kim Chi, Thích Mật Thể, đồng thời cử ra hội đồng nhân dân xã Quảng Giang gồm 23 đại biểu[5].

Cùng với Hội đồng nhân dân, các Ủy ban Hành chính cũng được kiện toàn và củng cố. Ủy ban Hành chính xã Quảng Giang gồm các đồng chí: Nguyễn Khương (Chủ tịch), Lê Tâm (Phó chủ tịch) và các ủy viên: Nguyễn Địch, Phạm Bá Khác, Trần Bàng, Phạm Sĩ Ngạc[6]. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức, đoàn thể như Mặt trận Việt Minh, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Công nhân cứu quốc... cũng ngày càng ổn định có chiều sâu.

Thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có ý nghĩa sâu sắc. Bao nhiêu năm sống dưới chế độ thực dân, phong kiến bị đày đọa, áp bức, bóc lột dã man, nay được cách mạng đem lại quyền sống và quyền làm chủ xã hội, người dân Quảng Giang càng tin tưởng vào tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Chính thời gian không lâu được hưởng quyền tự do, dân chủ đã giúp nhân dân Quảng Giang quyết tâm vùng lên chiến đấu trong sự nghiệp chống Pháp rồi chống Mỹ để giành lại độc lập, tự do.

Về giặc ngoại xâm, tình hình ngày càng trở nên căng thẳng. Sau Hiệp định sơ bộ ngày 06-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hòa để tiến” nhằm tranh thủ thời gian hòa bình để xây dựng và củng cố lực lượng. Nhưng quân Pháp càng ngày càng lấn tới, khiêu khích trắng trợn, khả năng chiến tranh nổ ra là không thể tránh khỏi. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách lúc này là tích cực chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Sau khi Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ (23-9-1945) rồi mở rộng ra Nam Trung Bộ, ngày 26-9-1945, Hồ Chủ tịch gửi thư cho đồng bào Nam Bộ kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Trước tình hình đó, nhân dân các địa phương hưởng ứng phong trào "Nam tiến" vì miền Nam thân yêu: tổ chức tuần hành biểu dương lực lượng, vun đắp ý chí bảo vệ Tổ quốc, nêu các khẩu hiệu chống Pháp. Ngày 6-1-1946, Ủy ban nhân dân cách mạng xã đã tổ chức lễ tiễn đưa các thanh niên vào Huế rồi lên đường Nam tiến gồm: Hoàng Giao, Văn Đinh Triền, Phạm Bá Đải, Phạm Bá Đễ. Phát huy khí thế đó xã tiếp tục đẩy mạnh phong trào tòng quân nhập ngũ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương.

Tháng 7-1946, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu, ra Nghị quyết về việc chuẩn bị kháng chiến. Một số cơ quan của tỉnh chuyển về Quảng Giang, Quảng Tín, Quảng Thắng. Triển khai khẩn trương Nghị quyết của Tỉnh ủy, các đồng chí Huyện ủy viên được phân công về tận cơ sở kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu. Đồng chí Nguyễn Điệt, Huyện ủy viên và đồng chí Nguyễn Thị Cúc, Bí thư Phụ nữ Cứu quốc huyện về phụ trách hai xã Quảng Giang và Quảng Tín[7]. Xã Quảng Giang tuyển chọn những thành viên có sức khỏe, có tinh thần hăng hái, dũng cảm hình thành các đội tự vệ tập trung và đội trinh sát vũ trang. Các đồng chí cán bộ, đảng viên đã đi sâu vào từng thôn xóm hướng dẫn, tổ chức nhân dân bố phòng, cất giấu lương thực, đào hầm để sẵn sàng đối phó với âm mưu và thủ đoạn của địch, bảo đảm an toàn cho các cơ quan của tỉnh đóng trên địa bàn.

Ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư. Trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị, phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên quy mô cả nước, đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” nêu rõ phương châm chỉ đạo cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người khẩn thiết kêu gọi “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Hơn một năm kể từ khi giành được chính quyền cho đến lúc cuộc kháng chiến thực sự bắt đầu, nhân dân các thôn ở Quảng Giang đã vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại, từng bước ổn định đời sống, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị một cách tích cực và chủ động nhằm đối phó với kẻ thù khi cuộc kháng chiến bùng nổ.

3.2. Chi bộ Quảng Giang[8] (Quảng Thái) lãnh đạo nhân dân trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1947 - 1950)

3.2.1. Vị trí chiến lược của Quảng Giang

Quảng Giang là một xã ở vào vị trí cực Bắc huyện Quảng Điền, xã trung tâm của vùng đồng bằng Phong - Quảng, lại nằm trên trục đường giao thông Bắc- Nam ven phá Tam Giang, phía Tây Nam có trảng cát lớn, nhiều lùm cây cối lụp xụp. Địa bàn xã nằm bên phá Tam Giang rất thuận lợi cho việc chuyển tiếp nhanh hệ giao thông thủy bộ, từ đó người dân có thể lên rừng, xuống biển, ra Quảng Trị hay vào Huế một cách dễ dàng. Hơn nữa, Quảng Giang lại có đường ranh tiếp giáp trãng cát nội đồng Phong - Quảng, rất thuận lợi trong việc mở tuyến giao liên với vùng giáp ranh rừng núi, làm bàn đạp về chiến khu Hòa Mỹ.

Bên cạnh đó, Quảng Giang còn có đồi cát lâm lộc hết sức thuận lợi cho việc đào hầm bí mật và cất giấu kho tàng, bảo đảm công tác hậu cần… Do đó mặc dù là một vùng sâu, vùng lõm song Quảng Thái lại có nhiều thuân lợi để có cơ sở xác lập địa bàn đứng chân của các lực lượng cách mạng vũ trang trong chiến tranh du kích hoặc vận động chiến một cách linh hoạt. Chính vì vậy mà trong kháng chiến chống Pháp, địa bàn xã chính là hậu phương lớn của cách mạng, cung cấp cán bộ, bộ đội, thuế nông nghiệp cho huyện Quảng Điền và tỉnh Thừa Thiên Huế, đồng thời là căn cứ địa an toàn cho Trung đoàn chủ lực E101 và E95 của tỉnh. Hơn thế nữa, nơi đây cũng là một điểm nóng ác liệt suốt 30 năm kháng chiến đánh đuổi thực dân, đế quốc giải phóng quê hương.

Với đặc điểm địa hình và giao thông thuận lợi đó, nên ngay từ những ngày đầu, thực dân Pháp đã cho xây dựng nhiều đồn bốt xung quanh cũng như đóng đồn ngay tại Lai Hà, nhằm chia cắt quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang của ta, ngăn chặn sự chi viện, tiếp tế của vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo cho chiến khu, đồng thời, tiến hành khống chế, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân trên địa bàn xã. Mặc dù gian khổ là thế, nhưng nhân dân Quảng Giang vẫn kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đi theo cách mạng, tiếp tục công cuộc kháng chiến kiến quốc.

3.2.2. Chi bộ Quảng Giang (Quảng Thái) lãnh đạo nhân dân kết hợp chống chính sách bình định của thực dân Pháp với xây dựng cơ sở kháng chiến và phát triển chiến tranh du kích

Chiến dịch bình định của thực dân Pháp là “đốt sạch, phá sạch, giết sạch” nhằm lùng bắt cán bộ, tiêu diệt cơ sở kháng chiến, thủ tiêu những thành quả mà nhân dân đã đạt được trong công cuộc xây dựng chế độ mới sau Cách mạng tháng Tám. Nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, tin tưởng vào thắng lợi, ngay sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Quảng Giang đã hăng hái tham gia chiến đấu, chủ động cùng nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh bước vào cuộc kháng chiến với niềm tin tất thắng.

Từ đêm lịch sử 19-12-1946 ấy, quân dân ta đã bao vây địch suốt 50 ngày đêm trong thành phố Huế, tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu và phá huỷ nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Sau khi mặt trận Huế vỡ, lực lượng cách mạng rút lui khỏi thành phố Huế, tản về vùng đồng bằng Quảng Điền và Phong Điền nhằm tránh các mũi đột kích của giặc, cùng nhân dân xây dựng cơ sở kháng chiến. Thực dân Pháp nhanh chóng triển khai lực lượng đánh chiếm những địa điểm quan trọng dọc các trục đường giao thông, chúng tập trung lực lượng cơ động đánh phá các vùng xung yếu, tràn ra chiếm hầu hết các vùng đồng bằng, vì vậy lực lượng cách mạng buộc phải rút lên miền núi.

Để phối hợp, chi viện cho mặt trận Huế, quân và dân huyện Quảng Điền đã dồn sức người, sức của cho mặt trận. Vừa tham gia với mặt trận Huế, các địa phương trong toàn huyện vừa phải chuẩn bị kế hoạch “vườn không nhà trống” khi kẻ thù đánh rộng ra. Họ đào hào, phá các nhà cửa kiên cố không cho địch lợi dụng khi chiếm đóng.

* Sự thành lập chi bộ xã Quảng Giang

Có thể thấy trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, nhân dân Quảng Giang gặp muôn vàn khó khăn. Khi mặt trận Huế vỡ, bộ đội chủ lực gần như tan rã, các tổ chức đảng và chính quyền không liên lạc được với nhau. Sự chỉ đạo của cấp trên gặp nhiều trở ngại, quần chúng nhân dân bị kìm kẹp và chịu sự kiểm soát gắt gao của địch. Các tổ chức cách mạng phải rút vào hoạt động bí mật. Nhiều phần tử phản động có cơ hội ngóc đầu dậy chống phá dữ dội phong trào cách mạng.

Khi vừa mới bước vào cuộc kháng chiến, Ủy ban Hành chính đã nhanh chóng chuyển từ thời thời bình sang thời chiến. Từ đó, Ủy ban Kháng chiến hành chính xã Quảng Giang được thành lập với các đồng chí Phạm Bá Khác (Chủ tịch), Trần Bàng (Chủ tịch), Hoàng Phát (thư ký), Nguyễn Địch (ủy viên tài chính), Văn Dụng (Trưởng ban công an), Hồ Trúc (Trưởng ban quân lương)... Nhiệm vụ chính của nhân dân Quảng Giang trong những ngày đầu kháng chiến là làm công tác hậu cần, chăm sóc thương bệnh binh cũng như ủng hộ và vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Tại đình thôn Đông Hồ và các gia đình bà Hét, bà Lồng, ông Trần Điểu... được Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, huyện bố trí làm nơi sơ tán Viện bào chế tân dược Trung Bộ do bác sĩ Tôn Thất Dư làm Viện trưởng[9]. Trạm thương binh tuyến sau của mặt trận Huế được đặt tại thôn Trằm Ngang, trưng dụng nhà ở của các gia đình ông Văn Đán, Văn Trũng, Văn Sang, Hà Thúc Quỳnh... Xã đã thành lập lực lượng tại chỗ, phát động phong trào tòng quân nhập ngũ bảo vệ tổ quốc. Tiêu biểu cho phong trào tòng quân là anh Văn Đình Song nhập ngũ vào Trung đoàn Trần Cao Vân, trở thành anh "Bộ đội cụ Hồ" đầu tiên của xã, hy sinh ngày 25-12-1946.

Trong thời gian này, đồng chí Lâm Mộng Quang, phụ trách lực lượng dân quân trong Ủy ban Kháng chiến hành chính của tỉnh, cùng đồng chí Bạch Văn Quế đến tại địa phương nắm tình hình và quyết định bố trí làng Phong Lai làm nơi dự trữ quân lương, hỗ trợ cho xã 300 ngàn đồng (bạc Đông Dương) để tiến hành các công việc chuẩn bị cho kho quân lương của huyện tại đây.

Với địa thế thuận lợi về điều kiện giao thông thủy bộ khá cơ động, về bảo đảm bí mật an toàn, nhân dân có truyền thống yêu nước và cách mạng sớm, Quảng Giang có vai trò lớn trong việc bảo đảm bí mật cho nhiều cơ quan, kho tàng và tài sản của Việt Minh Trung Bộ nên việc thành lập tổ chức Đảng tại chỗ vô cùng quan trọng.

Sau khi đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy đi kiểm tra tình hình và trực tiếp ra chỉ thị, Huyện ủy Quảng Điền nhanh chóng thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại xã Quảng Giang. Ngày 10-01-1947, tại nhà ông Trần Ngưu (thôn Trằm Ngang) đã tổ chức lễ kết nạp Đảng đối với 3 đồng chí Văn Đình Triền, Trần Bàng và Hoàng Phát. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Điệt[10], Huyện ủy viên, thay mặt Huyện ủy tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Quảng Giang và ông Văn Đình Triền được chỉ định làm Bí thư chi bộ xã[11], trở thành bí thư chi bộ đầu tiên của xã.

Chi bộ xã Quảng Giang được thành lập là chi bộ đầu tiên của xã Quảng Thái ngày nay. Sự kiện này đánh dấu sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện và thường xuyên của Đảng đối với phong trào cách mạng tại địa phương. Chi bộ đã kịp thời lãnh đạo mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, Ủy ban Kháng chiến hành chính xã, đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục cán bộ, quần chúng nâng cao tinh thần kháng chiến, ý thức cảnh giác, bảo mật phòng gian, chống các loại mật vụ, gián điệp, thực hiện khẩu hiệu “ba không”: “không biết, không nghe, không thấy”, “không đi lính cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đầu hàng giặc”. Các đoàn thể quần chúng còn tham gia xây dựng lực lượng du kích, tự vệ tại địa phương. Các đơn vị bán vũ trang xã được thành lập và được lực lượng vũ trang huyện về tăng cường, tập trung huấn luyện nâng cao chất lượng chiến đấu.

Ngay sau khi thành lập, Chi bộ đã theo sát tình hình của phong trào địa phương, lãnh đạo toàn diện công cuộc kháng chiến kiến quốc tại xã nhà trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và sau đó là lãnh đạo nhân dân xã Quảng Giang (sau đó là xã Quảng Thái) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng xã nhà từ đó cho đến nay.

Những ngày tháng đầu năm 1947 là vô cùng khó khăn đối với nhân dân ta tỉnh nhà cũng như nhân dân Quảng Giang. Thực dân Pháp đã thực hiện kế hoạch tái chiếm, mở rộng khu vực chiếm đóng, khống chế và tìm cách tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Về quân sự, thực dân Pháp đã thiết lập một phòng tuyến quân sự bao gồm những đồn bốt sát nhau, nhất là đoạn đường từ Mỹ Chánh ra biển, nhằm khống chế khu vực dân cư đông đúc và vựa lúa ở đồng bằng Phong - Quảng. Suốt thời kỳ kháng chiến, chúng dùng đủ mọi thủ đoạn và ném vào đây một lực lượng lớn quân đội để kiềm chế gắt gao phong trào kháng chiến các xã ven sông Ô Lâu và đồng bằng Phong - Quảng. Quân Pháp đã cho xây dựng đồn Lương Mai, Lai Hà nhằm thực hiện ý đồ bình định vùng đông dân, nhiều lúa gạo này đồng thời ngăn chặn sự chi viện cho lực lượng của ta ở các chiến khu. Từ các vị trí đồn bốt, địch thường xuyên nã đại bác, trọng pháo vào các làng xóm xung quanh và liên tục mở những cuộc hành binh càn quét gây nên những tội ác tày trời đối với nhân dân ta.

Về chính trị, thực dân Pháp xúc tiến thành lập ngụy quân, ngụy quyền làm tay sai. Tại xã Quảng Giang, Pháp dựng lên bộ máy ngụy quyền cấp xã, tổ chức các hội tề, mua chuộc, dụ dỗ đội ngũ Lý hương cũ, lôi kéo một số phần tử phản động, tổ chức hệ thống mật vụ, khủng bố dã man những người tham gia kháng chiến. Trong các cuộc càn quét, chúng mặc sức bắn giết, tra tấn đồng bào, kể cả các cụ già, phụ nữ và trẻ em. Tất cả là nhằm thủ tiêu phong trào kháng chiến của nhân dân ta phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.

Về kinh tế, chúng tạo điều kiện cho thế lực phản động tay sai cướp ruộng đất của đồng bào, đặc biệt chúng phá hoại mùa màng, cướp trâu, bò, thóc gạo của nhân dân. Chúng còn bắt nhân dân các xã xung quanh phải tập trung lúa gạo vào các đồn bốt, cho xe tăng chạy giữa ruộng lúa chín, dã man hơn, chúng còn bắn chết đồng bào đang cày cấy giữa đồng.

Từ tháng 2 đến tháng 4-1947, thực dân Pháp liên tiếp mở các chiến dịch càn quét, khủng bố hòng hủy diệt tinh thần và lực lượng cách mạng cơ sở. Từ ngày 10-2-1947, quân Pháp đánh chiếm Quảng Điền song bấy giờ cơ quan huyện đang đóng tại thôn Trằm Ngang. Khoảng 8h ngày 13-2-1947, có 2 Trung đội lính Âu Phi kéo quân vào xã Quảng Giang, dồn dân về phía địa phận Lai Hà và đã sát hại ông Nguyễn Địch[12]. Chúng đặt lại hệ thống chính quyền cơ sở do Lý trưởng cầm đầu ở hai làng Phong Lai và Lai Hà. Ngày 22-2-1947 chúng lùng sục, cướp bóc ở thôn Trằm Ngang và đụng độ với tổ tự vệ do ông Lê Chính chỉ huy, đốt sạch nhà cửa và giết hại Văn Bần và Trần Hàn. Giặc Pháp đóng đồn ở Lai Hà ngày 23-2-1947, từ đó tiến hành lùng sục, bắt bớ, hãm hiếp, cướp của, ép người dân phục dịch cho bọn chúng. Lúc này, lực lượng cách mạng ở địa phương gặp rất nhiều khó khăn nên sơ tán sang Phong Nhiêu, Phong Đăng, thôn Phú Nông, thôn Chánh Lộc (xã Phong Chương). Trên địa bàn chỉ còn giữ lại một số người làm nhiệm vụ theo dõi, do thám và báo cáo tình hình.

Đầu năm 1947, trước tình hình ngày càng ác liệt nên chúng ta thường xuyên củng cố, kiện toàn Ủy ban Kháng chiến hành chính. Đứng đầu Ủy ban Kháng chiến hành chính là các đồng chí Trần Bàng (Chủ tịch), Hoàng Phát (Phó chủ tịch) vào tháng 2-1947.

Sau khi củng cố bộ máy chính quyền xã, công tác chuẩn bị kháng chiến đã được đẩy mạnh lên một bước trong việc xây dựng lực lượng tự vệ, rèn đúc vũ khí, gươm đao, phòng gian bảo mật. Từ trong phong trào cách mạng, vào ngày 10-2-1947, các đối tượng tích cực là Phạm Sĩ Ngạc, Hồ Viết Tuynh và Trần Túc được 2 đồng chí Nguyễn Điệt (Huyện ủy viên), Nguyễn Thị Cúc (Bí thư Phụ nữ Cứu quốc huyện) giới thiệu kết nạp vào Đảng, nâng số đảng viên của chi bộ Quảng Giang lên thành 6 đồng chí.

Trước tình hình khó khăn, Tỉnh ủy họp mở rộng vào ngày 25-3-1947 tại rú Triều Dương, làng Nam Dương (Quảng Vinh)[13], dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh uỷ. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí Nguyễn Chí Thanh nhận định: “Mất đất chưa phải là mất nước, chúng ta cần phải tranh thủ từng thôn, từng người dân, chúng ta không thể mất dân, chết không rời cơ sở, chúng ta nhất định thắng”[14]. Hội nghị đã quyết định bố trí lại các cơ quan Huyện uỷ, củng cố Trung đoàn chủ lực, tổ chức một số trận đánh gây tiếng vang...

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Nam Dương, Huyện ủy Quảng Điền đã họp cán bộ các xã quyết định tất cả phải trở về bám cơ sở dù phải hy sinh tính mạng để khôi phục lại phong trào, tiến hành diệt ác trừ gian, trong đó có tiêu diệt tên Lý Dung ở Lai Hà[15]; quyết tâm xây dựng, bảo vệ hành lang và chiến khu, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang bám trụ đánh địch, giữ vững mạch máu miền núi với đồng bằng của ba huyện phía Bắc. Ở Quảng Giang, dù địch khống chế và khủng bố dữ dội nhưng chi bộ và chính quyền vẫn tồn tại, số lượng đảng viên ngày càng đông, tiếp tục lãnh đạo nhân dân kháng chiến.

Đầu tiên, giặc Pháp và tay sai ráo riết tăng cường khủng bố, chúng treo giải 500 ngàn đồng bạc Đông Dương cho ai chỉ điểm hoặc tiêu diệt được người đảng viên cộng sản Văn Đình Triền. Tuy nhiên, tinh thần đấu tranh của nhân dân Quảng Giang không nao núng. Đến cuối tháng 5-1947, đồng chí Hoàng Phát trở về từ chiến khu Hòa Mỹ, Hội nghị chi bộ xã Quảng Giang được tiến hành. Chính quyền cách mạng được củng cố. Lúc này, đảm nhận chức Chủ tịch và Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính là các đồng chí Hoàng Phát (Chủ tịch), Văn Đình Triền (Phó chủ tịch).

Nhằm ổn định tình hình, khôi phục phong trào, tổ chức lại lực lượng kháng chiến ở cơ sở, tháng 7-1947, huyện Quảng Điền tiến hành Đại hội Đảng bộ huyện tại Bàu Tràu (Phong Thu, Phong Điền) bầu đồng chí Nguyễn Minh Đạt làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Điệt, Phó Bí thư Huyện ủy[16]. Vùng sâu Quảng Giang, Quảng Tín, một phần của Quảng Vinh, Quảng Thắng là các xã giữ được cơ sở từ đầu kháng chiến, từng bước xây dựng căn cứ kháng chiến ở đồng bằng. Các xã còn lại tăng cường cán bộ về bám trụ quyết giữ vững cơ sở, tổ chức các tổ du kích bí mật. Các xã trong toàn huyện ra sức tăng gia sản xuất làm nhiệm vụ hậu phương, đặc biệt Quảng Giang đóng góp sức người, sức của xây dựng chiến khu Hòa Mỹ, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến của toàn tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội, hàng trăm cán bộ, đảng viên và chiến sĩ đã trở về bám cơ sở, xây dựng lại phong trào. Đồng chí Nguyễn Điệt đã trực tiếp về Quảng Giang truyền đạt chủ trương bám đất bám dân, xây dựng cơ sở, dựa vào dân tổ chức lực lượng đánh địch. Trong khi giặc tập trung ở phía nam xã thì lực lượng cách mạng quay về bám đất bám dân, xây dựng cơ sở, căn cứ địa, đào hầm bí mật chiến đấu, từ đây phong trào đấu tranh chuyển sang một giai đoạn mới...

Tối 12-7-1947, được công an Trung Bộ trực tiếp chi viện thông qua huyện Quảng Điền, một đội quân "Diệt ác trừ gian" đã luồn sâu vào sào huyệt địch tại Lai Hà, tiêu diệt hai tên tay sai gian ác là cố vấn và Lý trưởng ở Phong Lai, góp phần chấm dứt tình trạng đốt nhà, cướp của, giết người của bọn Việt gian tại địa phương. Ủy ban kháng chiến hành chính Quảng Giang luôn đặc biệt chú trọng đến tổ chức giác ngộ cách mạng cho nhân dân, tổ chức sinh hoạt nhằm động viên, cổ vũ tinh thần dũng cảm, gan dạ trong lực lượng dân quân du kích, sẵn sàng đánh giặc lập công.

Lực lượng du kích phát triển rộng khắp làm nhiệm vụ canh gác, báo động, đào hầm, cảnh giới, bảo vệ hoạt động buôn bán tại chợ Nịu. Thanh niên Quảng Giang chủ động tham gia các đơn vị bộ đội, du kích. Các đội thanh niên tự vệ, du kích thường xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang huyện bảo vệ cơ quan Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện đóng tại địa bàn xã. Địch tuy đóng nhiều đồn bốt nhưng phải co cụm lại trong đồn, không dám tự do lùng sục, sợ bị ta bắn tỉa hoặc vấp chông mìn.

Song song với việc xây dựng lực lượng vũ trang chiến đấu, chi bộ xã còn quan tâm củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Có thể nói, trước sự khủng bố tàn bạo của kẻ địch các tổ chức cách mạng của nhân dân không hề bị tan rã mà ngày càng được củng cố như Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội mẹ chiến sĩ… Ở Lai Hà, Việt Minh đã bố trí Phạm Thị Đấu vận động phụ nữ, Phạm Công Cánh vận động thanh niên, Phạm Du làm công tác địch vận. Ở Phong Lai, các đoàn thể cứu quốc được khôi phục xây dựng, mạng lưới tổ chức đến tận thôn xóm, cán bộ cơ sở được bố trí gồm Trần Úc, Văn Châu làm bí thư thanh niên, ông Kính làm bí thư nông dân, chị Lý, chị Châu làm bí thư phụ nữ, Văn Yêm làm chủ nhiệm Việt Minh. 

Sự tồn tại, phát triển và hoạt động mạnh mẽ của chính quyền cách mạng cũng như các tổ chức quần chúng ở xã bắt nguồn từ sự lớn mạnh của Chi bộ Quảng Giang. Đến tháng 8-1947, chi bộ đã phát triển một lớp đảng viên mới. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng sôi động, nhiều nhân tố tích cực đã được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này là: Hoàng Mộc, Trần Bửu, Văn Tuy, Phạm Kính, Phạm Sừng, Phạm Thị Duyên, Trần Ngột, Trần Ngự, Hồ Khiêu, Lê Ích, Hà Thúc Sâm, Phạm Tiện, Văn Thị Phước, Văn Phụng, Hoàng Thị Châu, Phạm Cánh, Lê Quắc,...[17]

Vào nửa cuối năm 1947, Pháp tăng cường khủng bố, càn quét mạnh vào vùng hậu cứ Quảng Giang. Trong đó, phải kể đến các cuộc càn quét vào chợ Nịu ngày 21-8-1947 để thu hủy bạc tài chính, bắt giết hai người Văn Đỉu và Phạm Tặng (26-8). Sau đó là cuộc lật lọng khi dụ dỗ cựu bộ đội ra “trình diện” tại đồn Lai Hà rồi dẫn vào Sịa gây nên cuộc thảm sát tập thể 5 người ngày 17-11-1947...

Trước những cố gắng và quyết tâm chiến đấu của quân và dân cả nước trong năm đầu kháng chiến, thực dân Pháp buộc phải thay đổi chiến lược, chuyển sang đánh lâu dài “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”. Chúng điều chỉnh lại cách tổ chức thực hiện chiến tranh. Đi đôi với tổ chức ngụy quyền từ trung ương đến thôn, xã, Pháp dùng ngụy quân làm nhiệm vụ chiếm đóng, rút quân Pháp ra để đối phó với ta. Chúng vừa tiến hành càn quét lớn ở đồng bằng vừa chuẩn bị tiến công tiêu diệt các căn cứ kháng chiến của ta ở miền núi.

Đầu năm 1948, Phân khu ủy và Tỉnh ủy chủ trương phải tiến hành phá tề[18]. Huyện ủy Quảng Điền đã lãnh đạo nhân dân phá tề trong toàn huyện, nhiều ban, hội tề bị tan rã; nhiều tên bị diệt, cảnh cáo, một số ít còn lại hoang mang, dao động, chạy trốn vào các đồn địch.

Tiếp đó, Huyện ủy tập trung chỉ đạo công tác phát triển đảng, các tổ đảng kết nạp thêm nhiều đảng viên mới bao gồm những đồng chí tích cực, có tinh thần chiến đấu cao. Do vậy, số lượng đảng viên ở Quảng Giang, Quảng Lợi tăng nhanh, đông hơn hẵn các xã khác, trở thành lực lượng hạt nhân của phong trào kháng chiến Quảng Điền. Đầu tháng 1-1948, đồng chí Văn Đình Triền được Tỉnh ủy triệu tập đi học lớp đào tạo cán bộ chi ủy viên tại chiến khu Hòa Mỹ trong thời gian một tháng, đồng chí Hoàng Phát làm Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch xã. Huyện cũng chủ trương “vấn đề quan trọng trước tiên là tổ chức hầm bí mật từ vùng sâu đến vùng căn cứ Quảng Giang”[19].

Trước tình hình hệ thống tề, ngụy bị phá vỡ ở nhiều nơi, thực dân Pháp phải tăng cường thêm hệ thống đồn bốt, tháp canh, vừa bảo vệ các vùng chúng cho là trọng yếu, vừa bao vây chia cắt lực lượng ta, làm cơ sở cho bọn tề, ngụy chống phá cách mạng, vây bắt cán bộ, o ép nhân dân. Trên đất Quảng Điền lại mọc thêm nhiều đồn bốt mới ở các trục đường chính, hệ thống tháp canh dày đặc gây nhiều khó khăn cho hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta.

Ngay từ cuối tháng 01-1948, địch đưa ngụy quân về đóng thay quân Pháp tại đồn Lai Hà. Cuối tháng 2-1948, Đại đội “Áo đen” do Trương Hậu (Quản Hậu) chỉ huy tiến hành càn quét ở địa phận xã. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân mà nòng cốt là Đại đội 120 thuộc Trung đoàn 101 phối hợp với Đại đội địa phương huyện do đồng chí Tống Hồ Trinh chỉ huy đã mai phục sẵn trên một địa bàn rộng kéo dài từ thôn Trằm Ngang đến thôn Nam Giảng, tiêu diệt được 60 tên, bắt sống 28 tên, thu được nhiều vũ khí, chiến lược phẩm, đánh dấu sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng[20]. Thắng lợi này có tác động lớn đến tình hình chính trị, quân sự trong huyện.

Tháng 5-1948 quân địch tại đồn Lai Hà kéo vào thôn Tây Hoàng, rồi Thủy Nịu sùng sục, bắt người, cướp của. Lực lượng du kích thôn do đồng chí Lê Quắc trực tiếp chỉ huy phối hợp với bộ đội địa phương đã triển khai du kích đánh địch tiêu diệt 3 tên, bắt sống 2 tên thu được 5 khẩu súng trường. Mùa hè năm 1948, quân dân Quảng Giang giành được thắng lợi lớn, lực lượng du kích lớn mạnh, huấn luyện bổ sung lực lượng, tăng cường cho một số xã khác trên địa bàn huyện. Mùa màng bội thu, ban quân lương xây dựng kho chứa dưới lòng đất vùng lâm lộc ở núi cát Đại Cao nhằm cung cấp gạo, lương thực và thuốc lá cho các xã lân cận và cấp trên, đồng thời tiếp nhận vũ khí cấp trên chuyển về.

Ngày 20-8-1948 xã đã tổ chức họp đại biểu nhân dân tại đình thôn Nam Giảng kiểm định tình hình sản xuất, đóng góp quân lương, quỹ kháng chiến, công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu và bầu ra Ủy ban Kháng chiến hành chính xã. Ủy ban Kháng chiến hành chính lúc này gồm Văn Yêm (Chủ tịch), Hồ Giảng (Phó thư ký), và các ủy viên: Trần Đình Tối (thư ký), Hồ Phụ (trưởng công an), Lê Quắc (quân sự), Phạm Công Phối (tài chính), Hồ Minh (văn xã)[21]. Lúc này, đồng chí Hồ Viết Tuynh làm Bí thư chi bộ xã.

Kể từ tháng 12-1948, Huyện ủy có lệnh phá tề, nhân ngày tết truyền thống năm Kỷ Sửu, ta tổ chức tiêu diệt bọn tay sai bán nước, giết tên Phó lý trên cầu sông Nịu. Sau sự kiện đó, Pháp đã tăng cường càn quét bằng 4 máy bay, thả 6 quả bom tại thôn Nam Giảng, nhưng nhờ có các hầm hào trú ẩn nên không có thiệt hại đáng kể.

Sau hai năm đầu kháng chiến đầy gian nan thử thách, chi bộ và nhân dân Quảng Giang đã đoàn kết chiến đấu, góp phần khôi phục được phong trào. Vùng tự do được mở rộng, bao gồm các phần đất thông xã ở phía nam, bắc và cả tuyến biển. Đó chính là cơ sở để nhân dân xã Quảng Giang tiếp tục cùng nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh bước vào giai đoạn mới giành nhiều thắng lợi to lớn hơn.

Những thắng lợi của ta trên các mặt trận trong năm 1948 đã làm cho địa vị thống trị của Pháp ở Việt Nam lung lay, tinh thần chiến đấu của binh lính Pháp và nguỵ binh ngày càng sa sút. Sang năm 1949, Mỹ tìm cách can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Việt Nam, hỗ trợ thêm điều kiện, phương tiện để Pháp tiếp tục thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Cụ thể, về quân sự, với sự giúp đỡ tích cực về khí giới của Mỹ, Pháp chủ trương phát triển quân nguỵ, dùng để thay thế cho quân Âu Phi, đồng thời tăng thêm 26.000 lính Âu Phi xây dựng thành lực lượng cơ động để càn quét, mở những đợt tấn công lớn hòng tiêu diệt chủ lực của ta. Về chính trị, dưới áp lực của Mỹ, Pháp đã phải sử dụng lá bài cuối cùng là Bảo Đại. Tháng 3-1949, Pháp ký Hiệp định Élysée với Bảo Đại nhằm thiết lập chính phủ bù nhìn mới.

Ở Thừa Thiên Huế, Pháp chủ trương càn quét mạnh đồng bằng, củng cố hội tề, sửa soạn một khu vực tương đối an toàn cho ngày về của Bảo Đại, bảo vệ, củng cố các đường giao thông huyết mạch bằng cách xây pháo đài cố thủ, tăng cường lực lượng ngụy binh.

Trước những âm mưu thủ đoạn mới của Pháp, để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới, ngày 14-1-1949, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 quyết định tiếp tục phá tan chiến dịch Thu Đông của địch, hoàn chỉnh lực lượng ba thứ quân; củng cố chính quyền, mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy mạnh tăng gia sản xuất... Trên cơ sở chỉ đạo của Hội nghị Trung ương lần thứ VI, Đảng bộ Thừa Thiên Huế chủ trương phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng làng chiến đấu phối hợp với bộ đội chính quy lập căn cứ đồng bằng, bao vây địch về mọi mặt và đánh giao thông của địch.

Giữa năm 1949, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, Đảng bộ tỉnh cũng tiến hành mở rộng địa giới các xã thôn, ghép các làng nhỏ, ít dân để lập các xã có phạm vi lớn hơn, nhằm huy động nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến. Theo đó, xã Quảng Giang và một số thôn của Quảng Tín được hợp nhất thành xã Quảng Thái, gồm 12 thôn: Lai Hà, Gia Quảng, Tây Hoàng, Thủy Nịu, Trằm Ngang, Nam Giảng, Đông Hồ, Đông Cao, Hà Lạc, Sơn Công, Đức Nhuận và Cổ Tháp. Ngay sau khi thành lập xã mới, bộ máy chính quyền nhanh chóng được kiện toàn, loại trừ những thành phần không tiêu biểu, thay vào đó là những đại biểu xứng đáng, được nhân dân tín nhiệm. Ủy ban Kháng chiến hành chính xã được thành lập, vận động nhân dân phát huy tinh thần làm chủ đất nước, tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng. Bí thư Chi bộ Quảng Thái giai đoạn này là các đồng chí Văn Đình Triền (1949-1950), Hồ Viết Tuynh (1950-1954). Giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính xã là các đồng chí Văn Yêm (1948-1949), Trần Đình Tối (1950-1954).

Lực lượng du kích xã Quảng Thái ngày càng trưởng thành, không chỉ tổ chức chống càn mà đã chủ động đánh vào đồn địch. Sáng ngày 25-6-1949 sau khi biết cơ quan huyện đã chuyển về Quảng Thái, Pháp đã cho máy bay L.19 (máy bay “bà già”) cho quân nhảy dù bắn vào Trằm Ngang, Thủy Nịu, Gia Quảng rồi đến Lai Hà giết chết một số người dân, giết hại nhiều trâu bò. Trung đội du kích xã đã đánh trả nhưng rất nhiều chiến sĩ du kích đã hy sinh. Đến ngày 30-10-1949 chúng lại tiếp tục ném pháo vào Trằm Ngang nhưng do ta có sự đề phòng nên không có tổn thất gì lớn.

Có thể nói, năm 1949 là năm mở đầu cho thời kỳ quật khởi mạnh mẽ trên toàn huyện Quảng Điền. Sau nhiều trận thắng của ta, địch buộc phải rút bỏ một số đồn bốt. Thế liên hoàn của căn cứ địa đồng bằng ngày càng lớn mạnh, du kích hoạt động liên tục. Vì vậy, địch tuy có nhiều đồn bốt nhưng phải co cụm lại trong đồn, không dám tự do đi lùng sục, sợ bị ta bắn tỉa hoặc vấp chông, mìn. Xã Quảng Thái cùng với xã Phong Dinh, Phong Phú, Phong Thạnh trở thành căn cứ an toàn của Trung đoàn 101, 95 và Tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Trong giai đoạn 1949-1950, Quảng Thái được xem là vùng căn cứ du kích đồng bằng (xã căn cứ) của huyện, với số lượng đảng viên lớn nên nơi đây đã được tin tưởng đặt cơ quan Huyện ủy Quảng Điền để chỉ đạo phong trào chung[22].

Thực hiện chủ trương "Rào làng chiến đấu" của Tỉnh ủy, xã Quảng Thái huy động mỗi gia đình đóng góp tre, nè triển khai rào quanh xã, bố trí chòi canh, huy động thợ rèn chông sắt, mỗi du kích lại phụ trách 2 bàn chông,... Buổi đầu những hoạt động này mang lại kết quả khá cao.

Một trong những hoạt động quân sự nổi bật là trận đánh đồn Lai Hà đầu năm 1950. Chi bộ và chính quyền Quảng Thái kết hợp với bộ đội chủ lực quyết định vây ép, nhổ đồn Lai Hà bằng cách tập trung lực lượng ban đêm quấy rối, ban ngày bố trí đào hầm tiếp cận, bắn tỉa, chặn đánh các đường bộ tiếp tế của chúng. Ngày 17-2-1950, địch rút khỏi Lai Hà, nhân dân thiêu trụi đồn Lai Hà, giải phóng quê hương[23]. Thắng lợi đó là sự kết hợp giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân. Trong đó dân quân chủ yếu làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, ngày đào địa đạo, đêm sử dụng nó để di chuyển. Bộ đội địa phương thăm dò, dẫn đường cho bộ đội chủ lực, thực hiện các cuộc tập kích nhỏ lẻ, quân chủ lực được tằng cường đóng vai trò chủ đạo. Sự kiện đánh đuổi giặc Pháp khỏi địa phận xã đánh dấu sự thành công lớn cũng như bước ngoặt lịch sử địa phương, chuyển sang một thời kì xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, đẩy mạnh cao trào kháng chiến chống Pháp.

Tiếp đó, ngày 26-3-1950, Trung đoàn 101 phối hợp với bộ đội huyện và du kích hai xã Quảng Thuận, Phong Nhiêu phục kích tiêu diệt đoàn ô tô tiếp tế cho đồn giặc ở Sịa. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 280 tên. Địch phản kích bằng cách tuyển ngụy binh, thực hiện chiến thuật "vết dầu loang", đóng thêm lô cốt, lập vành đai trắng thực hiện kế hoạch Delatte De Tatsignie và tiến hành càn quét. Ngày 21-8-1950, địch càn vào Quảng Thái với 3 gọng kìm bao vây lực lượng cách mạng tại Đông Hồ, lùng sục các thôn lân cận; tháng 10 địch lại càn quét một lần nữa. Trong các trận chống càn này nhiều du kích hy sinh, tiêu biểu như Phạm Bui (tức Phạm Tô), Lê Uyển đã hy sinh trong lúc truy cản địch, bảo vệ làng xóm[24].

Bên cạnh hoạt động quân sự, Chi bộ và nhân dân Quảng Thái còn chú trọng phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng, cất giấu lúa gạo, thực hiện bao vây kinh tế địch. Nhờ đó, khi mặt trận vỡ, địch chiếm đóng, đồng bào vẫn giải quyết được nạn đói và đóng góp cho kháng chiến. Ngay cả lúc ác liệt nhất, địch bắn trọng pháo, đại bác vào làng gây thương vong, đến mùa thu hoạch địch còn cướp phá, nhưng nhân dân Quảng Thái vẫn bám chắc ruộng đồng, tranh thủ mọi thời gian để sản xuất. Lực lượng du kích đã thành lập những đội cảm tử để giúp nhân dân gặt hái dưới làn mưa đạn của kẻ thù.

Xã Quảng Thái trong kháng chiến là vùng trọng điểm sản xuất lúa của huyện. Đây là nơi gần với chiến khu Hoà Mỹ, bởi vậy huy động sự đóng góp và trung chuyển của nhân dân Quảng Thái cho kháng chiến có ý nghĩa rất lớn. Bắt đầu từ năm 1950, công tác đóng góp của nhân dân Quảng Thái được tiến hành đều đặn và vận dụng nhiều hình thức sáng tạo. Thuế nông nghiệp được tính tuỳ từng loại ruộng tốt, xấu mà định mức thuế. Những gia đình neo đơn, có chồng con đi bộ đội, cán bộ kháng chiến được miễn giảm thuế. Bên cạnh đóng thuế nông nghiệp, bà con nhân dân xã Quảng Thái còn tổ chức gánh gạo, tiếp tế cho chiến khu, đông đảo bà con, thanh niên trong xã đã hăng hái tham gia công tác vận chuyển, tiếp tế cho kháng chiến.

Chính quyền cách mạng xã Quảng Thái còn vận động nhân dân đấu tranh thực hiện giảm tô, thoái tô theo các sắc lệnh của chính phủ. Năm 1949, Nhà nước tiếp tục ban hành Sắc lệnh giảm tô 15%. Trước sự lớn mạnh của chính quyền và lực lượng kháng chiến, nhân dân Quảng Thái kiên quyết đấu tranh đòi địa chủ phải giảm tô, thoái tô, địa chủ nào tìm cách thu giấu thóc lúa không chịu thoái tô, nhân dân đấu tranh đòi họ phải thi hành nghiêm chỉnh.

Nhờ việc thực hiện đúng đắn và sáng tạo các chính sách mới trên mà xã Quảng Thái đã đảm nhận tốt vai trò của hậu phương kháng chiến của tỉnh. Cùng với việc đưa tiễn con em mình lên đường đánh giặc trên các chiến trường, bà con Quảng Thái đã quyên góp của cải, tài sản của mình cho kháng chiến.

Trên mặt trận đấu tranh chính trị, ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Chi bộ Quảng Thái luôn chú trọng củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, củng cố khối đoàn kết dân tộc. Thành tích nổi bật của nhân dân Quảng Thái trên lĩnh vực chính trị là công tác bảo vệ tổ chức đảng, bảo vệ cán bộ, bộ đội, bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng. Khi có lệnh chuyển tài sản, hồ sơ tài liệu của cấp trên, nhiều gia đình đã tự đào hầm bí mật cất giấu tài liệu ngay tại nhà mình. Khi địch đến, bà con còn thực hiện vườn không nhà trống, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương kháng chiến. Trước những thành quả đó, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh họp tại Khe Rệ - Dương Hòa, Hương Trà (từ ngày 02 đến 15-5-1950, 272 đại biểu) đã kịp thời tuyên dương Đảng bộ 2 huyện, 3 chi bộ cơ sở. Trong đó chi bộ xã Quảng Thái được tuyên dương vì là: "Chi bộ vùng tương đối ít giặc, thực hiện phong trào thi đua xây dựng gia đình kháng chiến có hiệu quả, có nề nếp vận động nhân dân rất sinh động".

Ngay sau trận càn của địch, tháng 9-1950, một trận lũ lớn xảy ra ở huyện Quảng Điền, nhiều nhà cửa bị cuốn trôi, thóc gạo dự trữ bị hư hỏng nặng, bị ngập úng và nảy mầm, ruộng vườn xơ xác. Nhân dân, bộ đội và du kích thiếu lương thực trầm trọng. Cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi đứng trước những thử thách nặng nề. Lợi dụng thiên tai, địch tung ra kế hoạch “bình định cấp tốc”, phản công quyết liệt, cố lập lại trật tự như trước năm 1948.

Cũng trong thời gian này, một Trung đoàn bộ đội chủ lực đang trên đường hành quân đi ngang qua địa phận huyện Quảng Điền, vì bị lụt bão, đơn vị không tự túc được lương thực. Trước tình hình đó, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện yêu cầu nhân dân các xã giúp đỡ. Bà con Quảng Thái đã khắc phục những khó khăn trước mắt, chuẩn bị cơm nắm để gửi tới cho đơn vị. Tình cảm của nhân dân Quảng Thái đối với bộ đội còn được biểu hiện trong những ngày lễ tết. Cứ mỗi độ xuân đến, bà con lại chuẩn bị quà tặng cho bộ đội, có những gia đình nhà nghèo cũng cố gắng mua một vài quả cam, nải chuối gửi đến các chiến sĩ.

Bên cạnh việc giúp đỡ bộ đội, nhân dân Quảng Thái còn đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng nhau vượt qua những khó khăn gian khổ. Cứ mỗi lần bị giặc càn quét, khủng bố, giết người, cướp của, đốt nhà, nhân dân lại tự nguyện góp kẻ ít, người nhiều cho những gia đình bị thiệt hại, dựng lại mái nhà tạm. Chính nhờ sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau đó mà bà con Quảng Thái gắn bó với nhau hơn, gắn bó với cách mạng hơn và đã luôn tạo nên sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Kẻ địch nhiều lần mưu toan dựng nên chính quyền bù nhìn để làm tay sai cho chúng nhưng đều thất bại. Chính sức mạnh đoàn kết của toàn dân đã làm tê liệt nguỵ quân, nguỵ quyền xã; nhưng mặt khác cũng cho thấy bản thân những người làm việc trong nguỵ quyền không phải ai cũng là tay sai của đế quốc. Thực tế những năm 1949 trở đi, bộ máy nguỵ quyền xã Quảng Thái chỉ còn là hình thức.

Trên mặt trận văn hóa, mặc dù bị địch chiếm đóng và kiểm soát gắt gao, công tác phát triển văn hóa giáo dục y tế gặp nhiều khó khăn, nhưng Ban Thông tin văn hóa xã đã vận động bà con thực hiện đời sống mới theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch. Một trong những cố gắng rất lớn của nhân dân vùng chiến khu đồng bằng Phong Chương, Quảng Thái là góp sức cùng tỉnh và Liên khu xây dựng được trường học cho con em vùng phía Bắc tỉnh ở xã Phong Chương. Đó là trường Trung học Kháng chiến Nguyễn Chí Diểu, trường đã đào tạo được nhiều cán bộ cốt cán cho cách mạng. Tuy sinh sống trong các gia đình còn nhiều khó khăn tại địa bàn Quảng Thái nhưng có 6 người theo học trường Trung học Kháng chiến là các ông Văn Đức Chương, Văn Đức Hà, Hồ Viết Lô, Phạm Công Nguyên, Trần Đình Yển (Yến) (Phong Lai), Nguyễn Văn Ứng (Lai Hà). Những người này sau đó những thành những cán bộ cách mạng cốt cán trên nhiều lĩnh vực của cách mạng.

Tình trạng các trạm y tế ở địa phương trong tình trạng y tế lưu động. Đời sống nhân dân lúc này cũng vô cùng khó khăn. Nhiều gia đình hy sinh mất mát: "Cả gia đình ba cha con đều mất, bây giờ chỉ còn mỗi một mình nhưng được chế độ nhà nước quan tâm nên vẫn đầy đủ, bà còn nói tham gia du kích hay chỉ nuôi dưỡng bộ đội thì phần lớn đều bị Pháp bắt tra tấn, ít người thoát được"[25]. Những điều chia sẻ thực tế đó ta có thể nhận thấy được sự ác liệt của chiến tranh.

Sau khi bị đánh đau ở nhiều nơi, vào các tháng 9, 10, 11 năm 1950, địch liên tục tổ chức các trận càn vào Quảng Thái, trong đó nổi bật nhất là trận càn vào ngày Rằm tháng 10 năm Canh Dần (24-11-1950), với mục tiêu là tiêu diệt quân chủ lực đang đứng chân tại đây. Địch kéo vào Quảng Thái từ 3 hướng: Phò Trạch, Sịa và phá Tam Giang. Bộ đội chủ lực cơ động đi nơi khác, nhân dân chạy tránh càn ra Tràm Rú. Không gặp bộ đội chủ lực của ta, sau khi giết hơn 100 con trâu cày, địch lùng sục đến vùng Bàu Niên, Vĩnh Nẩy gặp một số đồng bào. Chúng vây ráp, bắt gom đồng bào lại tại “cây độc lập” rồi xả súng bắn chết một lúc trên 120 người, gồm những nông dân vô tội, người già, phụ nữ và trẻ em. Trong đó có nhiều gia đình bị địch giết sạch như gia đình ông Hoàng Triệt (Trùm Triệt) ở Tây Hoàng 5 người, ông Hồ Viết Ngờ 4 người, ông Lê Tín 4 người,... Đây là vụ tàn sát lớn nhất của địch đối với đồng bào Quảng Thái[26].

Dù trong tình thế khó khăn của công cuộc kháng chiến toàn diện những năm 1948-1950, nhưng thế và lực của ta ngày càng được củng cố và tăng cường mạnh mẽ hơn, địch không thể thay đổi được tình hình. Điều đó cho thấy sự sáng suốt, nhanh nhạy chỉ đạo của Chi bộ lãnh đạo cùng với tinh thần quyết tâm giữ vững cục diện chiến thắng kẻ thù của quân và dân xã Quảng Thái. Công tác xây dựng Đảng thường xuyên được chú trọng, cho đến cuối năm 1950, xã Quảng Thái có gần 300 đảng viên[27], đông nhất trong các xã của Quảng Điền.

Trải qua 4 năm tiến hành cuộc kháng chiến (1947 - 1950), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, huyện, nhân dân xã Quảng Thái đã đạt được những thành tựu nổi bật. Lực lượng cán bộ, đảng viên kiên cường bám đất, bám dân, kiên trì xây dựng cơ sở cách mạng, phục hồi phong trào. Chi bộ Đảng, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng ngày càng được củng cố. Đây chính là cơ sở để nhân dân xã Quảng Thái từng bước làm tốt nhiệm vụ của mình đối với cuộc kháng chiến. Những thắng lợi đó đã tạo tiền đề để quân và dân Quảng Điền bước sang giai đoạn tổng phản công.

3.3. Chi bộ Quảng Thái lãnh đạo nhân dân chuyển mạnh sang tổng phản công, góp phần cùng nhân dân toàn tỉnh và cả nước đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1951 - 1954)

3.3.1. Đánh bại kế hoạch De Lattre De Tassigny, kết hợp chiến tranh du kích với phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân (1951 - 1952)

Sau chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, thực dân Pháp càng lún sâu vào thế bị động và lúng túng. Được sự giúp đỡ của Mỹ, tướng De Lattre De Tassigny, Tổng chỉ huy kiêm Cao Uỷ Pháp tại Đông Dương, đề ra kế hoạch mới gồm 4 điểm, trong đó chiến trường Bình Trị Thiên trở thành một trong những trọng điểm, lực lượng địch bố trí ở đây lúc này bằng 1/3 lực lượng của chúng trên chiến trường Bắc Bộ. Ở Thừa Thiên, ngoài thành phố Huế được đặc biệt chú trọng, các vùng Quảng Điền, Quảng Điền, Phú Ốc, An Lỗ, Phú Bài... thực dân Pháp tập trung lực lượng và pháo binh cơ giới, liên tiếp mở các cuộc càn quét khốc liệt vùng tạm chiếm và chiến khu của ta nhằm mở rộng và củng cố vùng tạm chiếm, bảo đảm an toàn cho các khu vực chiếm đóng của chúng.

Để đối phó với kế hoạch De Tassigny, Bộ Tư lệnh Quân khu IV đã quyết định tăng cường hoạt động của bộ đội chủ lực trên chiến trường Bình Trị Thiên. Năm 1950, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình Trị Thiên được thành lập do đồng chí Hà Văn Lâu làm Tư lệnh và đồng chí Trần Quý Hai làm Chính uỷ. Sự ra đời của Bộ Chỉ huy mặt trận Bình Trị Thiên đã kịp thời hỗ trợ cho lực lượng vũ trang và phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân địa phương.

Trước âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp, chi bộ và chính quyền cách mạng xã Quảng Thái đã xác định nhiệm vụ của xã là phải nhanh chóng ổn định tinh thần nhân dân, phá tan cuộc hành quân chống phá của địch, đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt. Giữa lúc đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) thắng lợi là nguồn động viên, cỗ vũ lớn lao đối với cả nước nói chung, với cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Quảng Thái nói riêng, tăng thêm niềm tin vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến.

Từ năm 1951, địch không ngừng tăng quân ở chiến trường Bình Trị Thiên. Lực lượng cách mạng tuy có nhiều khó khăn nhưng tình hình các mặt của phong trào vẫn được giữ vững và phát triển. Vùng phía trên Quốc lộ 1A gần như được giải phóng hoàn toàn, nhân dân đi lại tự do; vùng dọc tuyến biển địch không kiểm soát được; vùng đồng bằng Phong Chương, Phong Dinh, Quảng Thái được nối sang Quảng Ninh, Quảng Hoà, Quảng Đại (Quảng Điền) và Hương Thái, Hương Toàn (Hương Trà) là khu căn cứ đồng bằng rộng lớn. Ở Quảng Thái, Chi bộ và Ủy ban Kháng chiến được kiện toàn vững chắc, các đoàn thể tiến hành Đại hội củng cố lại tổ chức, tạo thêm sức mạnh mới. Nhân dân trong các thôn, xóm chuyển sang sinh hoạt vào buổi tối, nhất là những buổi sinh hoạt tập thể đông người như hội họp, mít tinh. Cả công việc gặt hái và cày cuốc cũng được làm vào ban đêm để tránh phi pháo địch. Chợ Nịu trở thành chợ kháng chiến (họp chợ sau trảng cát) khi chợ cũ bị đốt phá.

Đầu năm 1951, bộ đội chủ lực của mặt trận Bình Trị Thiên đã phối hợp cùng bộ đội địa phương và du kích các xã tấn công tiêu diệt lô cốt An Gia lần 1 (12-2-1951) đánh tan một Đại đội quân ngụy từ Sịa đến tiếp viện và lần 2 (3-3-1951) đánh tan một Tiểu đoàn ngụy từ An Lỗ về Sịa cứu viện tại Nam Dương, Thanh Cần, diệt gần 300 tên địch. Trong các trận chiến này, xã Quảng Thái đã cử các đơn vị du kích tham gia phối hợp theo yêu cầu của cấp trên.

Tiếp đó, ngày 15-2-1951 địch tổ chức quy mô lớn gần 2.000 tên, phần lớn là Tiểu đoàn Âu Phi đánh vào căn cứ đồng bằng thuộc 4 huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng. Cánh quân từ Sịa theo 2 đường thủy bộ do Socken chỉ huy đều bị chặn đánh. Lực lượng du kích Quảng Thái cùng phối hợp với bộ đội huyện, tỉnh chặn đánh cánh quân bộ buộc chúng phải rút về Sịa, đường thủy bị Trung đoàn 95 đón đánh, địch phải tháo chạy. Cuộc tấn công của giặc Pháp bị quân ta bẻ gãy hoàn toàn.

Tháng 7-1951, Đại hội Đảng bộ huyện Quảng Điền lần thứ II được tiến hành tại thôn Trằm Ngang, qui tụ 100 đại biểu đại diện cho hơn 4.000 đảng viên trong toàn huyện. Đại hội đề ra khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng” và đồng chí Phan Ngô được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Sau đó, Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính lưu ý bám sát vùng sâu. Cán bộ, đảng viên ngày đêm luồn sâu vào vùng sau lưng địch, giữa hệ thống đồn bốt, tháp canh dày đặc, quyết tâm giữ vững trận địa giữa lòng dân, tổ chức nhân dân sản xuất và chiến đấu.

Tháng 12-1951, Huyện ủy đã tổ chức cuộc họp tại xóm rú làng Thanh Cần quyết định (xã Quảng Vinh) về việc phân phối mức tạm thu thuế nông nghiệp, hoãn tô, xóa nợ hoãn nợ... Nhân dân Quảng Thái tiếp tục thực hiện tốt các chính sách về kinh tế tài chính của Đảng và Chính phủ. Chính sách ruộng đất vẫn tiếp tục được triển khai, thuế nông nghiệp được 100% nhân dân tham gia đóng góp. Công tác bảo vệ mùa màng đã trở thành những chiến dịch lớn huy động tất cả các lực lượng quân, dân, chính, đảng tham gia. Mạng lưới an ninh nhân dân bảo vệ xóm, thôn, chống địch lũng đoạn kinh tế bằng gián điệp, buôn lậu được công an và du kích làm nòng cốt đã giữ vững được sự yên ổn của vùng chiến khu. Thực hiện tư tưởng tự lực cánh sinh, việc sản xuất tự cấp, tự túc, khuyến khích dùng hàng nội hoá đã trở thành phong trào rộng khắp, mạnh mẽ.

Bước sang năm 1952, giữa ta và địch diễn ra thế giằng co quyết liệt. Ở Quảng Điền, địch cố vươn lên giành lại thế trận đã mất bằng các đội quân tinh nhuệ và tăng cường thêm trang bị vũ khí. Riêng ở Quảng Thái, thực dân Pháp liên tục mở nhiều trận càn, trong đó có các trận càn ngày 15-2-1952, từ tháng 8 đến tháng 9 trong năm đó, ngày 14-12-1952,... Với những trận càn đó, chúng đã gây nên những thảm cảnh, tiếp tục giết người, cướp bóc, đốt nhà, giam cầm nhiều người dân lương vô tội, chồng chất thêm tội ác đối với nhân dân ta. Tuy khó khăn nhưng lực lượng cách mạng vẫn không nao núng, dựa vào sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, có lực lượng ba thứ quân (được tôi luyện và trưởng thành làm nòng cốt để duy trì, phát triển lực lượng.

Mùa hè năm 1952, Huyện ủy Quảng Điền đã triển khai cuộc vận động “rèn cán chỉnh quân”, giúp cho cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang nhận thức sâu sắc tình hình và nhiệm vụ mới, nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với cuộc kháng chiến, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Yêu cầu đặt ra đối với đảng viên lúc này là phân định rõ địch ta, bạn thù, xây dựng quyết tâm kháng chiến, đề phòng chủ quan mất cảnh giác. Qua đợt sinh hoạt chính trị, trình độ và năng lực của cán bộ được nâng lên rõ rệt, tạo được không khí đoàn kết, tin tưởng và phấn khởi trong đảng. Tiếp theo việc củng cố nội bộ đảng, Chi bộ xã được giới thiệu ra hoạt động công khai trong quần chúng. Chi bộ Quảng Thái thời điểm này có khoảng 500 đồng chí, qua các đợt tổ chức huấn luyện, đảng viên đã thêm một bước trưởng thành về sức chiến đấu, tin tưởng về đường lối chính sách của đảng, tin tưởng vào kháng chiến nhất định thắng lợi, ra sức lãnh đạo nhân dân chống địch càn quét, cướp phá, bảo vệ mùa màng, tăng gia sản xuất.

Càng gần đến giai đoạn cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thì tính ác liệt của chiến tranh càng dâng cao. Địch vẫn tiến hành kế hoạch bình định tiêu hao sinh lực ta, cướp của bắt lính phục vụ chiến tranh. Bên cạnh đó, ta cũng tiếp tục phát triển chiến tranh du kích, chống bình định, lấn chiếm, quyết bẻ gãy và làm thất bại âm mưu của địch, giữ vững văn cứ đồng bằng.

Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân xã Quảng Thái trong những năm 1951 - 1952 đã có những chuyển biến nhanh chóng. Tuy thực dân Pháp thường xuyên tiến hành càn quét, đánh phá ác liệt nhưng nhân dân Quảng Thái vẫn đoàn kết một lòng, cùng với lực lượng vũ trang chống càn, trừ gian diệt tề, bảo vệ căn cứ, thôn xóm, bao vây và uy hiếp các vị trí đồn địch, mở ra thế tiến công chiến lược trên thế thắng lợi và giữ vững quyền chủ động đánh địch, tạo tiền đề để bước vào giai đoạn tổng phản công, góp phần làm phá sản nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương.

3.3.2. Quảng Thái trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954

Đầu năm 1953, tình hình chiến trường có vài biến động lớn, địch tăng cường đánh phá trong thế bị động làm cho phong trào kháng chiến cách mạng đứng trước khó khăn, thử thách. Hội nghị Tỉnh ủy tháng 2-1953 chỉ rõ: "Tích cực chống càn quét phát triển mạnh chiến khu du kích; bảo đảm hoàn thành thuế nông nghiệp, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiết kiệm và chống nạn đói"[28]. Thực hiện chủ trương đó, nhân dân toàn huyện Quảng Điền tổ chức chủ động tiến công gây cho Pháp nhiều tổn thất. Từ ngày 13 đến 16-3-1953, địch huy động 6 Tiểu đoàn có xe bọc thép, pháo binh, máy bay yểm trợ càn quét một khu vực rộng từ Triệu Hải đến Phong - Quảng mà hợp điểm là Phong Chương - Quảng Thái nhằm tiêu diệt Trung đoàn 95, song đã bị bộ đội và dân quân du kích địa phương đánh thiệt hại nặng. Quảng Thái lại bị bom đạn dày xéo, một số cán bộ và nhân dân địa phương bị hy sinh, bị địch bắt bớ.

Sau hơn 7 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động, bế tắc về chiến lược. Đứng trước tình hình đó, chính phủ Pháp một mặt cầu cứu viện trợ Mỹ, mặt khác tìm biện pháp mới nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh buộc ta phải chấp nhận thương lượng theo những điều kiện của Pháp. Giữa năm 1953, Chính phủ Pháp cử tướng Henri Navarre sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Ngày 24-7-1953, Navarre đã đệ trình trước Hội đồng quốc phòng Pháp chương trình hành động, theo đó, trong Đông Xuân 1953 - 1954, Pháp giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh đụng độ với ta ở chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược ở Nam Bộ, về sau sẽ tập trung quân thực hiện tiến công chiến lược ở chiến trường Bắc Bộ, giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh.

Đối với chiến trường Bình Trị Thiên, thực dân Pháp tập trung củng cố các vị trí chiếm đóng, tổ chức các cuộc càn quét nhằm bình định vùng đồng bằng, đánh phá dữ dội xuống các khu căn cứ của ta, dồn dân lập vành đai trắng, tăng cường đôn quân, bắt lính, xây dựng nguỵ quân để thay thế cho Tiểu đoàn Âu - Phi được điều ra chiến trường Bắc Bộ. Kế hoạch Navarre ở Bình Trị Thiên được mở đầu bằng trận càn quy mô lớn mang tên “Cuộc hành binh Ca Margne” ngày 28-7-1953 vào bốn huyện Triệu Phong, Hải Lăng, Phong Điền, Quảng Điền nhằm bình định vùng đông dân nhiều của, tiêu diệt bộ đội chủ lực (Trung đoàn 95) và các lực lượng dân quân du kích, bộ đội địa phương của ta.

Ngày 30-6-1953, địch lại huy động lực lượng lớn, bao gồm các binh chủng bao gồm hải quân, lục quân, không quân, có cano, xe lội nước, pháo tầm xa,... mở trận càn trên địa bàn lớn. Địch tấn công từ 3 hướng vào Quảng Thái song dân quân du kích vẫn kiên trì bám trụ đánh địch, đồng chí Phạm Bá Song thôn đội trưởng Tây Hoàng và nhiều cán bộ, nhân dân hy sinh. Ngay sau đó, ngày 26-7-1953 (lần thứ 2) địch dùng ca-nô đổ bộ lính đóng chiếm cứ điểm Lai Hà, tiếp tục o ép nhân dân địa phương, cản trở sản xuất, thu gom trâu bò, bắt dân, lập dựng tề ngụy. Lực lượng du kích ngày đêm bao vây, khống chế cô lập đồn Lai Hà buộc giặc Pháp phải ẩn nấp cố thủ trong đồn. Ngoài ra, lúc này cũng có trận đánh của du kích tại Lùng Tràm khi địch di dời từ đồn Lai Hà lên Trằm Ngang, thể hiện sự chủ động “tìm địch mà diệt” của quân dân Quảng Thái.

Trên đất Phong - Quảng, địch tiến hành càn đi quét lại nhiều lần, nhiều trận đánh ác liệt giữa ta và địch diễn ra, hàng trăm tên địch bỏ mạng, nhưng ta cũng bị tiêu hao lực lượng nặng, cơ sở bị vỡ khá lớn. Sau trận càn, địch để lại một lực lượng tề điệp khá đông để khống chế nên tình hình càng khó khăn hơn. Ba huyện phía Bắc lại bị chia cắt, đường giao thông liên lạc kháng chiến của tỉnh từ Phong - Quảng đến Hương Trà thông suốt trong 4 năm qua, nay bị gián đoạn phải trở lại dùng tuyến đường phía trên.

Mùa thu 1953, Tỉnh ủy ra chỉ thị tiếp tục công cuộc chỉnh huấn đã tiến hành từ năm 1952. Nội dung chỉnh huấn có kết hợp phát động đấu tranh chính trị ở 5 xã có phong trào du kích mạnh để rút kinh nghiệm. Trong đó, xã Quảng Thái là xã duy nhất ở huyện Quảng Điền được chọn để phát động đấu tranh chính trị[29].

Trong lúc cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện đang quyết tâm khắc phục khó khăn đánh địch thì thiên tai ập đến. Trận lụt rất lớn từ 22 đến 25-9-1953 đã cuốn trôi nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân. Lợi dụng khó khăn của ta sau trận lụt, địch diễn lại cảnh bình định như năm 1950: lập tổ kiểm soát dân, bao vây kinh tế đối với kháng chiến. Trước tình hình đó, ngày 19-10-1953, Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị bất thường, đề ra kế hoạch lãnh đạo khắc phục hậu quả do lũ lụt gây nên. Các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị đã hết lòng vì Thừa Thiên ruột thịt, có tác dụng động viên, cổ vũ nhân dân Thừa Thiên vượt qua trở lực. Cùng với việc khắc phục hậu quả lũ lụt, lực lượng vũ trang vẫn đẩy mạnh du kích chiến tranh, chống càn quét, bảo vệ mùa màng. Với những cố gắng cao độ, Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên đã bước đầu vượt qua những khó khăn về thiên tai, địch hoạ, đẩy mạnh kháng chiến, phối hợp có hiệu quả với chiến trường chính.

Lúc này, trên chiến trường chính, ta giành được rất nhiều thắng lợi. Trước so sánh lực lượng có nhiều thay đổi, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và quyết định huy động đến mức cao nhất các lực lượng và khả năng kháng chiến để giành thắng lợi. Thừa Thiên Huế là chiến trường địch hậu, chiến trường phối hợp nhưng rất nóng bỏng. Địch vẫn liên tiếp càn quét nhiều nơi. Từ ngày 13 đến 16-3-1953, địch huy động 6 Tiểu đoàn có xe bọc thép, pháo binh máy bay yểm trợ, càn quét vào một khu vực rộng lớn từ Triệu Phong vào Quảng Điền, đặc biệt là vùng Phong Chương - Quảng Thái nhằm tiêu diệt Trung đoàn 95; nhưng chúng đã bị quân và dân ta đánh bại. Tỉnh ủy nhận định, khi địch tập trung lực lượng cho chiến trường chính, chúng sẽ sơ hở ở Thừa Thiên. Vì vậy, ta đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nguỵ binh; chống bắt lính, chống thu thuế, lập tề; lãnh đạo lực lượng vũ trang địa phương, đẩy mạnh hoạt động du kích nhằm “chia lửa” với chiến trường chính.

Kết thúc năm 1953, một niềm khích lệ đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân Quảng Thái là xã đã được xét tặng hai Huy chương Chiến sĩ vẻ vang, một Huân chương Kháng chiến hạng Ba[30]. Lễ trao tặng được tổ chức tại thôn Nam Giảng, càng động viên tinh thần cũng như phong trào kháng chiến trong nhân dân.

Vào năm 1954, tình hình chiến trường chuyển biến mạnh mẽ, địch ngày càng bị rơi vào tình trạng bị động và lúng túng. Chúng đã tổ chức một số trận càn quét với quy mô nhỏ, chủ yếu dùng pháo bắn vu vơ vào các thôn xóm hoặc càn quét cướp phá lương thực, thực phẩm phá hoại mùa màng. Lúc này tranh thủ tình hình thuận lợi trên chiến trường cả nước, ngày 19-3-1954, Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy chủ trương phát động cao trào tấn công và nổi dậy đồng loạt trong tỉnh, phát động phong trào “giết giặc lập công”, tranh thủ thời cơ Pháp đang thất thủ ở chiến trường Điện Biên Phủ để giành thắng lợi quyết định. Ngày 30-3-1954, bộ đội chủ lực phối hợp với quân dân trong huyện tập kích các vị trí quanh Sịa. Trong tháng 4-1954, địch tổ chức một số trận càn quét qui mô nhỏ, dùng pháo bắn vào thôn xóm, cướp phá lương thực mùa màng. Một số đồng chí hy sinh như Phạm Công Cánh (Xã đội trưởng), Phạm Thoạn (Xã đội phó), Lê Liểm, Hồ Ngưu…[31].

Kết hợp với tiến công quân sự, mũi tiến công bằng binh vận được triển khai đều khắp và thu nhiều thắng lợi. Binh lính đào rã ngũ ngày càng nhiều. Phối hợp chặt chẽ với tiến công quân sự, binh vận, Chi bộ Quảng Thái đã chú ý đúng mức đến việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tổ chức quần chúng kéo lên huyện lỵ đấu tranh lên án hành động bắn phá và đòi bồi thường những tổn thất của nhân dân. Bên cạnh đó, nhân dân trong xã cũng kéo nhau về Sịa (nay là thị trấn Quảng Điền) đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ.

Ngày 7-5-1954 cứ điểm cuối cùng của địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn, quân và dân ta càng phấn khởi bao nhiêu thì binh lính giặc càng hoang mang, hoảng sợ bấy nhiêu, bộ máy ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở của chúng đều bị rệu rã. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết, tuy còn có hạn chế nhất định do tình hình quốc tế diễn biến phức tạp và so sánh lực lượng lúc đó, nhưng Hiệp định là một thắng lợi lớn của ta. Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương.

Ngày 01-8-1954, tình hình chiến sự ở Thừa Thiên chấm dứt, báo hiệu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc trên quê hương. Nhân dân Quảng Thái vui đón hòa bình, khẩn trương chuẩn bị chấp hành các chỉ thị của cấp trên về tập kết và sẵn sàng hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc năm 1956.

Kể từ ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ đến ngày ký kết Hiệp định Genève, nhân dân Quảng Thái đã cùng với nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh tiến hành một cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng anh dũng. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và kiên cường của Đảng bộ cấp trên mà trực tiếp là chi bộ Quảng Giang, rồi chi bộ Quảng Thái, nhân dân Quảng Thái đã góp phần to lớn vào việc đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. 

Trong suốt 9 năm chống Pháp đầy hy sinh, gian khổ, nhân dân Quảng Thái luôn một lòng một dạ theo Đảng, theo Chính phủ. Địa bàn Quảng Thái có phong trào du kích phát triển mạnh với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, nơi đứng chân an toàn cho lực lượng bộ đội chủ lực... Vì vậy, thực dân Pháp đã tiến hành đóng đồn bốt và mở những đợt càn quét rất tàn bạo. Tuy nhiên, toàn thể nhân dân Quảng Thái với tinh thần yêu nước thiết tha, với niềm tin vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến, đã tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, hăng hái sản xuất để vừa ổn định đời sống vừa cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Chi bộ Quảng Thái đã thấm nhuần tư tưởng là dù ở bất kỳ đâu và ở bất kỳ thời điểm lịch sử nào, nếu được nhân dân tin yêu và đùm bọc, thì khó khăn và gian khổ đến mấy cách mạng cũng sẽ giành được toàn thắng. Bên cạnh việc vận dụng một cách sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng bộ cấp trên vào địa phương, chi bộ còn biết bám đất, bám dân để xây dựng cơ sở, củng cố chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức chiến đấu, nên đã tạo được niềm tin sâu sắc trong nhân dân. Trước mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, lực lượng cán bộ, đảng viên luôn kiên cường bám sát địa bàn, sẵn sàng chiến đấu bất chấp gian khổ và hy sinh. Chính nhờ có Đảng trong lòng dân và dân tin yêu vào Đảng, nên cuộc kháng chiến của bà con nhân dân xã nhà không ngừng phát triển. Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là một chặng đường đầy vẻ vang, đầy tự hào, ghi thêm vào lịch sử Quảng Thái những trang sử chói ngời về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương.

 


[1] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.70.

[2] Địa chí Văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.167-168.

[3] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.170.

[4] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.171.

[5] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.173.

[6] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.173.

[7] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.176.

[8] Đầu năm 1946, xã Quảng Giang được thành lập, gồm các thôn Phú Ân, Phú Lễ, Lai Hà, Gia Quảng, Tây Hoàng, Thủy Nịu, Trằm Ngang, Nam Giảng, Đông Hồ và Đông Cao; đến giữa năm 1949 thì xã Quảng Giang và một số thôn của Quảng Tín được hợp nhất thành xã Quảng Thái.

[9] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.176.

[10] Nguyễn Điệt (1915-1987), quê xã Vinh Thanh, huyện Phú Vang.

[11] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.178. Trong sách Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005) có ghi: “… đến cuối năm 1946 đã có trên 50 đảng viên và 11 xã có chi bộ…” (trang 77) nhưng không đề cập chi tiết các chi bộ. Chúng tôi dựa vào tư liệu địa phương tại xã Quảng Thái.

[12] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.180; nhưng theo ông Hoàng Truyền thì ngày 23-2-1947 mới là ngày Pháp nổ súng vào địa bàn xã và đóng đồn ở Lai Hà.

[13] Trong hội nghị này, do bị gián điệp theo dõi nên đồng chí Lâm Mộng Quang là Tỉnh ủy viên cùng một số người bị bắt giữ sau khi hội nghị kết thúc và chúng đã giết hại đồng chí Lâm Mộng Quang.

[14] BCH Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập I (1930 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 245.

[15] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.86.

[16] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.86-87.

[17] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.189-190.

[18] Chính quyền ở làng xã vùng bị chiếm đóng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

[19] Huyện ủy Hương Điền (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Điền, Sơ thảo, tr. 105.

[20] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.192. Về sự kiện này sách Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.89 cho là vào tháng 8-1948.

[21] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.194.

[22] Huyện ủy Hương Điền (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Điền, Sơ thảo, tr.117.

[23] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.199.

[24] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.201, 203.

[25] Theo lời kể của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Hồ Thị Nghiện, .....

[26] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.204. Tuy nhiên, sự kiện này sách Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), sđd, tr.103 ghi chép có khác vài chi tiết, đặc biệt ghi ngày chống càn là tháng 8-1951.

[27] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.98

[28] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.110.

[29] Huyện ủy Hương Điền (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Điền, Sơ thảo, tr.141.

[30] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.208. Sách Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr.114 và Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Điền, tr.144 đều ghi: “… hai Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất và một Huân chương Kháng chiến hạng Hai” có thể chưa chính xác.

[31] Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Sđd, tr.209, 286.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 10.593.946
Truy cập hiện tại 4.842