Tìm kiếm tin tức
Chương 6 ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÃ QUẢNG THÁI TIẾP TỤC CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG (1990 - 2020)
Ngày cập nhật 15/12/2022

6.1. Đảng bộ Quảng Thái lãnh đạo nhân dân tiếp tục công cuộc đổi mới giai đoạn 1990 - 2000

6.1.1. Đặc điểm, tình hình và chủ trương của Đảng bộ

Tiếp nối truyền thống của toàn Đảng bộ trong giai đoạn trước, trong giai đoạn đổi mới Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Thái đã không ngừng phát huy vai trò to lớn của mình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Với chức năng lãnh đạo bằng đường lối chính sách, Đảng bộ xã Quảng Thái là nhân tố quyết định thắng lợi việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của xã nhà.

Thực hiện chủ trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (24 - 27-6-1991), VIII (28-6 - 01-7-1996) của Đảng, cũng như Nghị quyết của các kỳ đại hội tỉnh và huyện Đảng bộ, Đảng bộ và nhân dân Quảng Thái bước vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến hết sức phức tạp. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tạo cơ hội cho các thế lực thù địch tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính điều này đã tác động mạnh đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên cũng như toàn thể nhân dân trong xã. Công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương đang đặt ra những thách thức mới.

Trên địa bàn huyện Quảng Điền, âm mưu “diễn biến hòa bình” do một số phần tử xấu tiến hành ở một số địa phương. Lợi dụng mâu thuẫn quyền lợi địa phương, cộng thêm sự chỉ đạo chưa kịp thời của chính quyền xã Quảng Phước, Quảng Vinh, một số phần tử cực đoan đã lôi kéo, xúi giục làm nóng lên việc tranh chấp “kênh Diên Hồng”. Mặt khác, do ta chủ quan, nóng nội trong quá trình đề ra chủ trương và triển khai thực hiện giải tỏa cồn Da Bò (Thủ Lễ), giải phóng mặt bằng trạm bơm Nam Phước, giải phóng mặt bằng khởi công xây dựng Kho bạc Nhà nước (tại Khuông Phò), các phần tử cực đoan đã lợi dụng làm phức tạp thêm tình hình trật tự trị an[1]. Tình hình đó đã có những tác động nhất định đến tư tưởng của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ở Quảng Thái.

Về thực tiễn của địa phương, cơ bản Quảng Thái thời gian này vẫn còn là một xã còn nhiều khó khăn, nền kinh tế còn chậm phát triển, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, đời sống nhân dân còn nhiều thiếu thốn và thường xuyên bị thiên tai tàn phá nặng nề. Trước tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân Quảng Thái đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy sức mạnh tổng hợp, nổ lực phấn đấu để vượt qua những khó khăn thử thách, tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và đã đạt được rất nhiều thành tựu, nó được thể hiện trên nhiều mặt công tác.

Ngày 26-5-1990, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU lãnh đạo việc tổ chức điều chỉnh lại quy mô thành phố và các huyện. Ngày 29-9-1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 345/HĐBT về việc chia huyện ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo đó, huyện Hương Điền được tách thành 3 huyện như cũ là Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà. Ngày 1-10-1990, bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể mới đã hình thành và bắt đầu hoạt động. Huyện Quảng Điền gồm có 10 xã là: Quảng Phú, Quảng Vinh, Quảng Phước, Quảng Thọ, Quảng An, Quảng Thành, Quảng Lợi, Quảng Công, Quảng Ngạn và Quảng Thái. Việc điều chỉnh địa giới hành chính này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác từ huyện về các xã.

Từ việc xác định chủ trương về cơ cấu kinh tế mà Huyện ủy Quảng Điền đề ra, Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Thái đã chú trọng đến việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, phát huy vai trò kinh tế hộ, cá thể, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đầu tư thâm canh, đưa dần các giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao về gieo trồng tại địa phương. Bên cạnh đó, địa bàn Quảng Thái được xác định là vùng trọng điểm trong chủ trương nuôi trồng thủy sản của huyện, nhận thấy tiềm năng và lợi ích thiết thực, Đảng bộ Quảng Thái đã mở rộng và đẩy mạnh phát triển nghề nuôi cá lồng và đánh bắt thủy hải sản trên địa bàn xã một cách có hiệu quả[2].

Để thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng bộ xã Quảng Thái đã nỗ lực vận động nhân dân phát triển nuôi trồng thủy hải sản, cá lồng trên phá Tam Giang. Đồng thời, đẩy mạnh việc phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm theo hướng quy hoạch trang trại.

Về văn hóa - xã hội, Đảng bộ xã Quảng Thái triển khai thực hiện Nghị quyết 06-NQ/HU ngày 03-10-1992 về việc tăng cường công tác tư tưởng - văn hóa trong tình hình mới. Đảng bộ xã Quảng Thái quán triệt thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/HU bàn về công tác quốc phòng an ninh trên địa bàn xã trong tình hình mới. Ban chỉ huy quân sự Quảng Thái đã quan tâm đến việc xây dựng lực lượng, đảm bảo yêu cầu sẵn sàng chiến đấu cao; gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân[3].

Năm 1997, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Quảng Thái vinh dự được đón tiếp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đến thăm và làm việc. Điều này đã động viên toàn xã Quảng Thái phấn đấu đi lên, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, xứng đáng với danh hiệu mảnh đất anh hùng.

6.1.2. Thành tựu về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng

- Về kinh tế

Quảng Thái là một xã thuộc diện xã tương đối khó khăn của huyện Quảng Điền. Phần lớn diện tích đất đai của xã là đất cát, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Dân cư sống không tập trung, các nghề phụ hầu như không có điều kiện phát triển, địa bàn hẻo lánh xa trung tâm. Thực hiện chủ trương đổi mới của Trung ương, sản xuất nông nghiệp có bước chuyển dịch quan trọng về tổ chức, quản lý sản xuất song vẫn còn phụ thuộc vào thời tiết, sản phẩm nông nghiệp chưa mang tính hàng hóa, các sản phẩm cây trồng, vật nuôi … phát triển chưa đúng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương; ngành nghề dịch vụ còn nhỏ lẻ, nguồn lực về đất đai, lao động của xã nhà chưa được khai thác một cách hiệu quả… Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, tình hình kinh tế xã nhà thời gian này đã có sự phát triển đáng kể.

Về kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp nông thôn, xã đã có nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nông nghiệp, xã đã coi trọng chỉ đạo việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, xác định vai trò chủ lực của kinh tế hộ gia đình đồng thời phát huy vai trò của các hình thức kinh tế khác. Nhằm nâng cao năng suất, Đảng bộ và chính quyền xã đã có các biện pháp khuyến khích việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất đồng thời chú trọng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết của địa phương. Nhờ những nổ lực đó mà tình hình sản xuất nông nghiệp của Quảng Thái đã có những biến chuyển tích cực, năng suất, sản lượng nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước.

Kinh tế nông nghiệp vẫn được Đảng bộ xã xác định là mũi nhọn để phát triển kinh tế, là chiến lược để đảm bảo an toàn lương thực từ đó tạo nền tảng vững chắc để phát triển các ngành kinh tế khác. Do đó, các hoạt động sản xuất nông nghiệp luôn được Đảng bộ và chính quyền Quảng Thái tập trung chỉ đạo sâu sát nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Các chương trình khuyến nông được thực hiện ngày càng nhiều nhằm chuyển giao những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, cải tạo giống cây - con, từng bước cơ giới hóa trong khâu làm đất, thu hoạch, tăng cường công tác phòng trừ sâu bệnh… được xã triển khai trong thời gian này đã mang lại hiệu quả tốt.

Công tác thủy lợi rất được Đảng bộ và chính quyền xã nhà coi trọng. Một trong những công trình trọng điểm trong giai đoạn 1990 - 2000 là xây dựng hồ chứa nước Nam Giảng vào năm 1994. Sông Nịu vẫn tiếp tục được nạo vét hàng năm, đập Cửa Lác tiếp tục được đắp với hàng ngàn ngày công của nhân dân xã nhà. Năm 1998, đắp đê kè sông Nịu. Bên cạnh đó đập Lai Hà cũng được xây dựng trong thời điểm đầu của giai đoạn này. Chính điều này đã đáp ứng được một phần nhu cầu tưới tiêu nước cho mùa màng ở địa phương. Cùng với việc chú trọng thủy lợi, xã nhà đã chú trọng đưa các giống lúa cao sản 4B, 13/2 vào sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tăng năng suất, phát triển nông nghiệp.

Việc thực hiện Nghị quyết số 10-CT/TW trong nông nghiệp của Bộ chính trị, còn gọi là khoán 10 ở Quảng Thái được quán triệt sâu sắc. Các hợp tác xã nông nghiệp đã tinh giảm bộ máy, giao quyền sở hữu tư liệu sản xuất cho nông dân, hợp tác xã chỉ điều hành khâu kỹ thuật và dịch vụ.

Công tác khai hoang phục hóa, thau chua rửa mặn được tiến hành một cách có hiệu quả, góp phần tăng diện tích canh tác nông nghiệp. Năm 1990, diện tích trồng lúa là 480 ha năng suất ước đạt là khoảng 33- 35 tạ/ha đến năm 2000 diện tích trồng lúa tăng lên là 500 ha năng suất ước đạt là khoảng 40 tạ/ha [4].

Công tác trồng rừng trên địa bàn xã được chú trọng và đẩy mạnh từ năm 1996. Lúc ban đầu có khoảng 70 ha diện tích rừng được trồng theo hệ thống vòng đai với các loại cây như: tràm hoa vàng, bạch đàn, keo lá mát. Những năm tiếp theo công tác trồng rừng được chú trọng và phát triển ở các vùng lân cận. Đến năm 2000, diện tích trồng rừng đã lến đến 120 ha. Việc đẩy mạnh và phát triển công tác trồng rừng trên địa bàn xã đã góp phần phủ xanh cát hóa, chắn gió foehn Tây Nam (hay còn gọi là gió Lào) và còn có tác dụng giữ ẩm cho môi trường trên địa bàn xã. Đây được xem là một thành quả lớn mà chính quyền xã nhà cũng nhân dân đã đạt được khi vừa góp phần cải thiện đời sống kinh tế cũng như mang lại những hiệu quả nhất định trong đời sống của bàn con[5].

Hoạt động đánh bắt thủy sản ở Quảng Thái chủ yếu vẫn diễn ra trên phá Tam Giang và sông Nịu. Giai đoạn 1995 - 2000 trên địa bàn xã có khoảng 70 lồng nuôi cá nước ngọt. Thôn có thế mạnh trong lĩnh vực này là Lai Hà và Trung Làng. Bên cạnh các loại thủy sản như cá, tôm, cua, trìa, lươn đánh bắt được người dân Quảng Thái còn khai thác rong để làm phân xanh phục vụ trồng trọt nhất là bón cho cây thuốc lá. Hoạt động nuôi trồng thủy sản bắt đầu khởi phát ở cuối giai đoạn này.

Về chăn nuôi, trong giai đoạn 1990 - 2000, Đảng bộ Quảng Thái đã lãnh đạo nhân dân phát triển và xây dựng mô hình cơ cấu đang dạng vật nuôi, chú trọng đến loại mang hiệu quả kinh tế cao như lợn thịt, gà, vịt,… Trong giai đoạn này, tính bình quân trên địa bàn xã có khoảng 4.200 lợn thịt, đàn gia cầm với khoảng 15.00 con[6].

Đảng bộ và chính quyền Quảng Thái cũng đã chú trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ có chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước cũng như thông qua các chương trình tài trợ của các tổ chức quốc tế về vốn, kỹ thuật, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn tiếp cận nguồn vốn để mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất các nghề thủ công truyền thống của địa phương. Các ngành tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn xã cũng từng bước được phát triển như mộc dân dụng, nề dân dụng, xay xát, cơ khí, sửa chữa các loại công cụ nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng… có điều kiện thuận lợi phát triển đã góp phần giải quyết nhiều công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân.

Về hệ thống mạng lưới điện, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa, Đảng bộ và chính quyền xã nhà đã cố gắng đưa ánh sáng về với người dân địa phương. Sau nhiều cố gắng và nỗ lực, hệ thống điện thắp sáng đã được hoàn thành ở xã Quảng Thái năm 1997, khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 19-5-1997 nhân ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Việc xây dựng các công trình phục vụ đời sống của nhân dân được Đảng bộ xã hết sức chú ý. Xã đã tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước để xây dựng các công trình phúc lợi, tiêu biểu là việc xây dựng hệ thống nước sạch về tận các thôn trong xã, bảo đảm cung cấp nguồn nước hợp vệ sinh phục vụ sinh hoạt cho nhân dân (trước đó phải sử dụng nguồn nước tự nhiên từ sông, suối). Hệ thống thông tin liên lạc trên địa bàn xã cũng có bước phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước năm 1990. Sự phát triển đó đã phục vụ tốt nhu cầu thông tin của nhân dân cũng như công tác lãnh, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền xã.

Nhìn chung, tình hình kinh tế của Quảng Thái giai đoạn 1990 - 2000 có nhiều bước tăng trưởng đáng kể, bộ mặt nông thôn thay đổi từng ngày, đời sống của nhân dân có sự thay đổi ngày càng rõ nét, số hộ nghèo đói không ngừng giảm, số hộ khá giả tăng lên, hệ thống thủy lợi được tu sửa, xây dựng mới ngày càng nhiều. Dưới sự lãnh chỉ đạo đúng hướng của Đảng bộ và chính quyền xã, bộ mặt nông thôn xã nhà ngày càng khởi sắc, mọi mặt đời sống của nhân dân ngày càng ổn định và phát triển, nhiều hộ gia đình đã sắm được đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt như ti vi, xe máy…

- Về văn hóa - xã hội

Nắm vững quan điểm phát triển kinh tế phải hài hòa đồng thời các vấn đề xã hội, Đảng ủy đã cụ thể hóa công tác phát triển văn hóa - xã hội thành những chương trình, chính sách cụ thể, trên cơ sở đó đã chỉ đạo triển khai các kế hoạch hành động, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực về văn hóa - xã hội trên địa bàn.

Về giáo dục, công tác giáo dục luôn được Đảng bộ và nhân dân hết sức coi trọng, ngành giáo dục Quảng Thái giai đoạn 1990 - 2000 đã có những bước phát triển khá vững chắc cả về quy mô, chất lượng, cơ sở vật chất phục vụ việc dạy - học từng bước đáp ứng được nhu cầu học tập nâng cao dân trí của con em trên địa bàn xã. Chất lượng giảng dạy của các cấp học không ngừng được nâng lên qua các năm. Trong giai đoạn này, 01 trường trung học cơ sở (sau này là trường THCS Lê Xuân) được xây dựng mới. Xã nhà đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và tiến lên phổ cập giáo dục trung học cơ sở, khích lệ tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp ngày càng cao. Các lớp học xóa nạn mù chữ vẫn được tiếp tục mở để giúp bổ túc văn hóa cho người dân xã nhà.

Về y tế, trong giai đoạn 1990 - 2000, công tác y tế chăm sóc sức khỏe, dân số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Công tác dân số luôn có sự phối hợp giữa ban dân số và trạm y tế xã để thực hiện tốt các chiến dịch truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt kết quả khá cao. Trạm y tế của xã đã phối hợp với Ủy ban dân số - gia đình và trẻ em triển khai tốt chương trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, chủ động kiểm tra, giám sát vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm, xử lý nước uống, tích cực phòng chống các dịch bệnh xảy ra trên địa bàn xã. Nhìn chung, mạng lưới y tế của xã giai đoạn này có nhiều chuyển biến tích cực so với giai đoạn trước, đội ngũ y bác sỹ khám chữa bệnh có chuyên môn nghiệp vụ tốt, cơ sở vật chất, thiết bị khám chữa bệnh được trang bị khá đồng bộ, góp phần nâng cao một bước đời sống của nhân dân trên địa bàn xã.

Năm 1995, trạm y tế xã Quảng Thái được chuyển từ thôn Trung Kiều về Thôn Đông Hồ và được xây dựng mới, cơ sở mới đã đáp ứng được nhu cầu khám và chữa bệnh bước đầu cho nhân dân trong xã. Cùng với đó, vườn thuốc Nam cũng được xây dựng để hỗ trợ cho công tác chữa bệnh.

Về văn hóa - thông tin, thông qua các hoạt động văn hóa văn nghệ, tuyên truyền cổ động, Đảng bộ và chính quyền xã đã kịp thời tuyên truyền những quan điểm đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến tận mọi tầng lớp nhân dân. Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), VIII (1996) hệ thống thông tin của xã đã đưa tin khá tường tận và chi tiết về diễn biến, nội dung và kết quả của Đại hội. Ngoài ra, Đảng bộ còn tích cực tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội...

Năm 1992, Đảng bộ xã Quảng Thái đã quán triệt Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 03-10-1992 của Huyện ủy Quảng Điền về việc tăng cường công tác tư tưởng - văn hóa trong tình hình mới. Nhờ đó trên mặt trận tư tưởng - văn hóa đã có một số thành tựu nhất định.

Giao thông, đi lại, trong giai đoạn 1990-2000, với chính sách Nhà nước và nhân dân cùng làm “nhiều được đoạn đường bê tông liên thôn, liên xóm được xây dựng. Đặc biệt trong khoảng năm 1992-1993 đoạn đường 10km nối từ ngã ba Quảng Thái đến chợ An Lỗ được rải nhựa. Năm 1990, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng cầu Nịu bằng bê tông sắt. Năm 1997, cầu rào Nam Giảng cũng được đầu tư kinh phí xây dựng bằng bê tông cốt sắt. Qua đó, góp phần tạo sự thuận lợi trong việc lưu thông đi lại của người dân qua đoạn đường quan trọng này.

Trong thực hiện chính sách xã hội, Đảng bộ xã Quảng Thái đã quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng chính sách như thực hiện các chính sách ưu đãi của Nhà nước cho các đối tượng thuộc diện ưu tiên. Thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa của Đảng và nhà nước, chính quyền xã và các tổ chức đoàn thể nhân dân trên địa bàn xã đã kịp thời chăm sóc, theo dõi để trích quỹ trợ cấp khi các đối tượng chính sách gặp khó khăn. Xã cũng đã tập trung giải quyết các loại hồ sơ đối với những người có công với cách mạng còn tồn đọng theo chính sách của Nhà nước, chăm lo tốt cho những người neo đơn, già cả, trẻ tàn tật mồ côi không nơi nương tựa. Năm 1992, xã đã xây dựng 01 nghĩa trang Liệt sỹ với diện tích 1.000m2 để phục vụ công tác đền ơn đáp nghĩa - tưởng nhớ công ơn đối với các liệt sỹ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ nền độc lập tự do dân tộc của quê hương, đất nước.

Có thể nói rằng tình hình văn hóa - xã hội của Quảng Thái trong giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu khá nổi bật. Tuy là một xã nghèo về kinh tế song không nghèo về văn hóa giáo dục, con em trong xã được chăm lo học hành đến nơi đến chốn, trình độ dân trí của nhân dân từng bước được nâng cao. Đời sống văn hóa và sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của bà con khá phong phú, nhân dân từng bước được tiếp xúc đầy đủ các nguồn thông tin cũng như các tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới, phục vụ sản xuất ngày càng tốt hơn. Công tác chăm sóc sức khỏe được quan tâm đúng mức, ngày càng có nhiều tiến bộ.

- Về quốc phòng - an ninh

Đảng bộ xã quán triệt Nghị quyết số 15-NQ/HU ngày 21-05-1992 của Huyện ủy Quảng Điền về công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Từ đó, xã đã xây dựng lực lượng, đảm bảo yêu cầu sẵn sàng chiến đấu cao, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.

Ngoài ra, Đảng bộ đã có kế hoạch cụ thể trong việc xây dựng địa bàn mạnh về mọi mặt, xây dựng đơn vị an toàn sẵn sàng chiến đấu. Để chủ động đối phó trong mọi tình huống, Đảng bộ đã tăng cường củng cố lực lượng quân tự vệ tinh gọn ở các hợp tác xã và các đơn vị thôn xóm. Thông qua các đợt huấn luyện quân sự, các lực lượng đã tham gia rất tích cực và thường đạt kết qủa cao cả về số lượng tham gia lẫn chất lượng huấn luyện. Thực hiện công tác gọi công dân nhập ngũ, nhiều năm liền xã luôn đạt chỉ tiêu huyện giao, trên địa bàn xã gần như không có quân nhân đào bỏ ngũ. Công tác hậu phương quân đội cũng luôn được Đảng bộ và chính quyền xã quan tâm, nhất là đối với các gia đình có quân nhân tại ngũ, quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về luôn được Đảng bộ và chính quyền quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể tìm kiếm được công ăn việc làm ổn định. Công tác tuyển quân vẫn được tiến hành điều đặn, hàng năm tuyển khoảng 10 - 20 quân, phụ trách tuyển quân vào giai đoạn này là các đồng chí Hoàng Đình Lâm, Văn Đức Quang.

Đảng bộ đã quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, có những biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời với các đối tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn. Đảng bộ cũng đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ Đảng viên cũng như quần chúng nhân dân nhằm nhận rõ âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động chống phá, không để ra điểm nóng trên địa bàn xã. Công tác tổ chức đối với các lực lượng an ninh, quốc phòng cũng được Đảng bộ thực hiện một cách nghiêm túc như củng cố Ban công an xã, lực lượng công an viên tại các thôn. Ngoài ra, Đảng bộ còn thường xuyên chỉ đạo công tác tuyên truyền, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.

6.1.3. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng

- Công tác xây dựng Đảng

Trong bối cảnh phức tạp sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, Đảng bộ Quảng Thái đã có những hành động tích cực để góp phần ổn định tình hình xã nhà. Về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt: chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống và tổ chức, xem công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ. Trên cơ sở đó, Đảng bộ xã đã nghiêm túc triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, Huyện ủy, kịp thời cụ thể hóa thành chương trình hành động sát thực với tình hình và đặc điểm của địa phương.

Nhờ chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng nên phần lớn cán bộ đảng viên của Đảng bộ đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước mọi tình huống, có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, kiên định mục tiêu cách mạng của Đảng, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, thường xuyên duy trì hoạt động của Đảng bộ theo đúng quy định, luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Sau các kỳ đại hội Đảng các cấp, công tác tổ chức và hoạt động của Đảng bộ được kiện toàn từ Ban Thường vụ Đảng ủy cho đến các chi ủy, chi bộ các thôn.

Giai đoạn 1990 - 2000, Đảng bộ xã trải qua 5 kỳ đại hội: Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1988 - 1990) Bí thư Đảng bộ là đồng chí Hồ Viết Tây, lần thứ IV (nhiệm kỳ 1990 - 1992), lần thứ V (nhiệm kỳ 1992 - 1994) Bí thư Đảng bộ là đồng chí Văn Đức Thống, lần thứ VI (nhiệm kỳ 1994 - 1996) Bí thư Đảng bộ là đồng chí Văn Đức Thống, lần thứ VII (nhiệm kỳ 1996- 2000) Bí thư Đảng bộ là đồng chí Văn Đức Thống.

Trong quá trình hoạt động, Đảng bộ Quảng Thái luôn bám sát các quy định đã ban hành của Trung ương, thực hiện một cách nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, phát huy trí tuệ tập thể trong thảo luận bằng cách đưa ra bàn bạc những nghị quyết, những định hướng lớn trong các lĩnh vực thuộc phạm vi lãnh đạo của Đảng bộ xã. Bên cạnh đó, Đảng bộ luôn đảm bảo duy trì chế độ sinh hoạt của Thường vụ, Ban chấp hành, của các chi bộ đúng định kỳ, có nội dung thiết thực, bàn định có trọng tâm, trọng điểm những nội dung, chuyên đề sát với tình hình thực tiễn địa phương. Trong sinh hoạt Đảng, Đảng bộ luôn đề cao tinh thần phê bình và tự phê bình đối với các tập thể và cá nhân nhằm không ngừng xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Về công tác tổ chức, cán bộ, Đảng bộ xã đã làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Đảng bộ đã từng bước hoàn chỉnh quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức đoàn thể cấp xã. Thông qua các chương trình đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong xã không ngừng được nâng cao, đảm bảo mang tính kế thừa, liên tục.

Công tác tạo nguồn kết nạp đảng viên mới được Đảng ủy và các Chi bộ quan tâm chăm lo. Qua thực tiễn phong trào quần chúng, nhất là trong tầng lớp thanh niên và đội ngũ giáo viên, hội viên Hội nông dân, Hội phụ nữ … Đảng bộ xã đã chọn lựa những đoàn viên, hội viên ưu tú, tiêu biểu tham gia các lớp bồi dưỡng chính trị tại trung tâm bồi dưỡng chính trị của huyện.

- Đảng bộ Quảng Thái với việc xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở

Giai đoạn 1990 - 2000, Hội đồng nhân dân xã đã từng bước được cải tiến cả về tổ chức lẫn phương thức hoạt động theo quy định của pháp luật. Chất lượng của các kỳ họp và hoạt động của HĐND cũng vì thế được nâng lên. Các thành viên của HĐND xã đã thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND đối với hoạt động của UBND, đồng thời không ngừng củng cố, hướng tới xây dựng HĐND xã ngày càng vững mạnh. Nhằm quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội , HĐND đã tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri để lắng nghe, tiếp thu các ý kiến, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân trong xã nhà, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương, biện pháp thực hiện phù hợp với thực tiễn của địa phương. Các Nghị quyết của Hội đồng nhờ vậy đã phát huy hiệu quả tích cực trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo đúng chủ trương của Đảng và công cuộc đổi mới cũng như đường lối công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

UBND xã sau khi được kiện toàn, cũng cố tổ chức bộ máy quản lý đã có sự chuyển biến tích cực trong công tác điều hành các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; triển khai thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chỉ thị quyết định cấp trên về phát triển kinh tế xã hội. Cán bộ UBND xã từng bước nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, hạn chế và khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt công việc được giao. Trong thời gian này, Uỷ ban xã đã xây dựng tốt các chương trình công tác, kỷ luật công việc nhờ vậy được nâng lên từng bước. Một số lĩnh vực quan trọng như quản lý đất đai, hộ tịch, hộ khẩu, khai sinh, khai tử… được UBND tăng cường quản lý nên có nhiều tiến bộ tích cực. Công tác tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại, kiến nghị của nhân dân được thực hiện chu đáo, củng cố vững chắc thêm niềm tin từ nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, hoạt động của các cụm dân cư ngày càng hiệu quả đã hỗ trợ đắc lực cho chính quyền xã thực hiện tốt công tác quản lý địa bàn trên một số lĩnh vực, góp phần giúp UBND xã quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội.

- Công tác xây dựng Mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng

Nhận thức được tầm quan trọng về vai trò, vị trí và sức mạnh của các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị, giai đoạn 1990 - 2000, Đảng ủy xã đã có các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng ở địa phương, phân công từng đồng chí trong cấp ủy phụ trách theo dõi. Bằng nhiều biện pháp khác nhau, Đảng bộ xã đã tập hợp được lực lượng quần chúng từ thôn, xóm, hợp tác xã đến cấp xã với nhiều hình thức thích hợp, gắn lợi ích vật chất, tâm lý của hội viên, đoàn viên để các tổ chức đoàn thể quần chúng trở thành mối dây đoàn kết các cộng đồng dân cư trên địa bàn xã. Thông qua các hoạt động của các đoàn thể mà xây dựng và củng cố các tổ chức đoàn thể trong mặt trận xã.

Hội Nông dân xã Quảng Thái đã tham gia tích cực trong lĩnh vực sản xuất như hưởng ứng việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi, ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi… Hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ xã ngày càng có chiều sâu, góp phần tích cực trong các phong trào, đặc biệt là phong trào dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Nhiều chị em phụ nữ đã động viên con em làm nghĩa vụ quân sự, tiếp nhận một cách có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nước và các chương trình tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, các dự án… phục vụ tốt sản xuất, kinh doanh, làm ăn ngày càng hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu.

Hội Cựu chiến binh xã đã phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, xây dựng tổ chức hội ngày càng vững mạnh. Nhiều hội viên là những cán bộ cốt cán, có nhiều thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, đã phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu. Hoạt động của Hội cựu chiến binh đã góp phần giúp cho Đảng bộ và chính quyền xã làm tốt công tác chính trị - tư tưởng, góp phần bảo vệ trật tự trị an thôn xóm.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng trong nhiều hoạt động phong trào, phong trào thanh niên trong khối trường học đã hỗ trợ đắc lực cho nhiều hoạt động văn hóa xã hội của địa phương (các phong trào tình nguyện, tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, trồng cây gây rừng, các đợt tuyên truyền cổ động…).

Trong giai đoạn này, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân của xã đã từng bước được củng cố, kiện toàn về mặt tổ chức cũng như hoạt động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã luôn coi trọng việc giáo dục các tầng lớp nhân dân chấp hành các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng chính quyền, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, vận động toàn dân giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

6.2. Đảng bộ Quảng Thái lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2000 - 2020

6.2.1. Đặc điểm, tình hình và chủ trương của Đảng bộ

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn 2000 - 2020 có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của xã nhà. Giai đoạn này, xã tiếp tục xây dựng và củng cố những thành quả của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong những năm trước đó; bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới do tình hình trong nước và quốc tế mang lại, những khó khăn và thử thách đối với sự phát triển vẫn rất lớn.

Trên cơ sở các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006), lần thứ XI (2011), lần thứ XII (2016), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, XIII, XIV, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X, XI, XII; các kỳ Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ VIII (2000 - 2005), lần thứ IX (2005 - 2010), lần thứ X (2010 – 2015), lần thứ XI (2015-2020) đã ra các Nghị quyết khẳng định tinh thần chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân xã nhà giành được những thành tựu mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội, cùng với cả tỉnh, cả nước tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa được khẳng định từ đại hội lần thứ VII, VIII của Đảng.

Đảng bộ xã Quảng Thái luôn quán triệt triển khai đầy đủ, chính xác các chủ trương của Đảng bộ cấp trên. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Quảng Điền trong các Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X (2000) đến lần thứ XIII (2015), Đảng bộ xã nhà đã tích cực vận động quân và dân trong xã đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống cách mạng, nêu cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm vượt qua mọi thử thách khó khăn, nỗ lực khai thác mọi tiềm năng và nguồn lực để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, gắn với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất.

Từ năm 2000, Đảng bộ Quảng Thái luôn chủ trương xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng” theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện NQTW 4 khóa XII của Đảng. Đảng bộ luôn quán triệt triển khai đầy đủ, chính xác các chủ trương của Đảng bộ cấp trên. Trong 20 năm tiếp tục thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ xã nhà tiếp tục chăm lo ổn định và cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, chăm lo tốt công tác văn hóa, giáo dục, y tế, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo quản lí trong thời kì cách mạng mới.

6.2.2. Thành tựu về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng

- Về kinh tế

Về kinh tế nông nghiệp, Đảng ủy xã đã xác định sản xuất nông nghiệp toàn diện luôn là ngành kinh tế mũi nhọn của xã và thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp được chú trọng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt 12%/năm. Tổng sản phẩm xã hội từ 51,758 tủ năm 2010 tăng lên 110 tỷ năm 2015 và 155 tỷ năm 2019[7].

Đảng ủy đã đề ra các Nghị quyết chuyên đề về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học vào trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế trang trạng, nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi cơ cấu cây trông vật nuôi, phát triển dịch vụ, đặc biệt là các mô hình kinh tế như: nuôi cá lồng, cá hồ, làm nấm, trồng mướp đắng, áp dụng lúa cấp I, mở rộng chăn nuôi… đã tạo ra năng suất, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích ngày càng cao. Giá trị tổng sản lượng sản xuất nông, lâm thủy sản tăng từ 73 tỷ đồng năm 2015 lên 95,59 tỷ năm 2019[8].

Kinh tế nông nghiệp của xã giai đoạn 2000 - 2020 có bước phát triển vượt trội về diện tích cũng như sản lượng so với giai đoạn trước. Diện tích gieo trồng của xã năm 2005 đạt 855 ha, đến năm 2009 là 902 ha[9]. Trong đó diện tích lúa chiếm 540 ha, lạc chiếm 94 ha, khoai mỡ 32 ha, rau màu các loại khác chiếm 236 ha. Song song với việc thải hồi các giống lúa có nguồn gốc từ địa phương hiệu quả thấp, đến năm 2005 xã đã đưa 100% diện tích gieo trồng các loại giống mới có năng suất cao hơn đạt 42.86 tạ/ha[10]. Năng suất lúa bình quân của xã trên các vùng sản xuất hàng năm có sự thay đổi khác nhau, tùy theo các yếu tố thời tiết, tình hình các loại dịch bệnh… Năm 2005 đạt 42.86 tạ/ha so với năm 2004 tăng 3.35 tạ/ha; năm 2012 đạt 59,16 tạ/ha, giảm 1,51 tạ/ha so với năm 2011[11].

Diện tích rau màu, diện tích trồng cây công nghiệp ngắn ngày được xã chú trọng phát triển. Chính điều đó đã đem lại hiệu quả kinh tế khá cao cho địa phương. Trong giai đoạn 2000- 2020, diện tích rau màu tiếp tục được duy trì. Các loại cây trồng chủ yếu là lúa, lạc, màu, thuốc lá, ớt, mướp đắng và các loại cây trồng khác, hàng năm đều được thực hiện đảm bảo về mặt diện tích theo kế hoạch. Đặc biệt mở rộng diện tích tăng vụ đối với cây lúa tăng thêm thu nhập đáng kể. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 897 ha, trong đó lúa chiếm 544 ha, lạc 94 ha, khoai mỡ 32 ha, màu các loại 227 ha. Việc tăng năng suất các loại cây trồng đều đạt kế hoạch mà Nghị quyết của Đảng ủy và Hội đồng nhân dân xã xác định hàng năm. Năng suất lạc đạt 17 tạ/ha của năm 2005, đến năm 2011 tăng lên 20 tạ/ha đạt chỉ tiêu so với kế hoạch[12].

Trong 15 năm từ 2005 đến 2015, diện tích cây công nghiệp ngắn ngày tiếp tục được duy trì. Diện tích trồng lạc giảm mạnh từ năm 2005 với 98 ha, đến năm 2008 thì giảm xuống còn 87,5 ha, và chỉ còn 44 ha đối với năm 2012. Sự giảm mạnh đó là do có sự chuyển đổi diện tích trồng lạc sang trồng khoai mỡ của Hợp tác xã Thống Nhất để bán cho nhà máy rượu Sakê Nhật Bản. Diện tích khoai mỡ năm 2012 đạt 20 ha, năng suất 65 tạ/ha, sản lượng 130 tấn, đã cung ứng cho nhà máy rượu Sakê Nhật Bản. Trong giai đoạn 2015-2020, xã tiếp tục duy trì và mở rộng diện tích trồng cây có giá trị và cho thu nhập khá cao như mướp đắng, thuốc lá, ném, lạc, khoai lang; cơ giới hóa được tăng cường. Xã đã tập trung chỉ đạo tái cơ cấu nông nghiệp, hình thành một số mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn gắn với liên kết chuỗi giá trị như: Thành lập tổ hợp tác trồng và chế biến mướp đắng Tây Hoàng theo tiêu chuẩn VietGAP; phối hợp với Công ty hữu cơ Quế Lâm đầu tư trồng ngô hữu cơ gắn với đầu ra; vận động chuyển đổi diện tích trồng lúa khó khăn sang trồng sen do Học viện Nông nghiệp Việt Nam hỗ trợ...

Năm 2015 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 2.800 tấn, tăng 259 tấn so với năm 2010, năng suất lúa tăng từ 45,2 tạ/ha vào năm 2010 lên 51 tạ/ha vào năm 2015. Năm 2019, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 4.112 tấn, năng suất lúa tăng lên 57 tạ/ha[13]. Trên địa bàn toàn xã, về cơ bản đã cơ giới hóa 100% khâu làm đất, 95% khâu thu hoạch, trên 95% khâu vận chuyển; đặc biệt hệ thống thủy lợi Tây Hưng đã được đưa vào sử dụng, gần 100% diện tích trồng lúa đã được chủ động tưới tiêu[14].

Về chăn nuôi, tổng số lợn hàng năm trên 5000 con, trâu 450 con, đàn gia cầm 26.000 con. Bước đầu đã xây dựng theo hướng phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại; lợn có 16 gia trại thu nhập bình quân đạt trên 50 triệu đồng/hộ/năm. Nhìn chung, ngành chăn nuôi trong những năm 2005-2010 theo hướng phát triển, thu nhập tăng lên đáng kể, tổng giá trị đạt 11,2 tỷ đồng vào năm 2011 so với năm 2005 tăng 3,4 tỷ đồng[15]. Mô hình chăn nuôi trang trại, gia trại phát huy hiệu quả. Năm 2015 có 39 gia trại, giá trị thu được tăng từ 12,8 tỷ đồng năm 2010 lên 26,2 tỷ năm 2014[16]. Tuy bị ảnh hưởng của dịch bệnh (lở mồm long móng, dịch heo tai xanh…) nhưng ngành chăn nuôi vẫn hạn chế được thiệt hại xảy ra và nhanh chóng phục hồi. Từ tháng 5-2019, trên địa bàn xảy ra dịch tả lợn châu Phi gây nhiều tổn thất. Tổng đàn lợn năm 1919 có 1.005 con, bò 107 con, trâu 325 con, gia cầm 91.650 con. Tổng giá trị thu được từ chăn nuôi từ 26,6 tỷ đồng năm 2015 lên 28,5 tỷ đồng năm 2019[17].

Kinh tế trang trại, đến năm 2010 từng bước được duy trì và phát triển theo hướng nông lâm kết hợp, gắn với mô hình trồng nấm, nuôi cá hồ, chăn nuôi gia súc theo hướng gia trại, thu nhập được tăng lên đáng kể, đã có 12 hộ đạt chuẩn, trong đó có hộ thu nhập hàng năm 40-50 triệu đồng. Những năm gần đây, kinh tế trang trại phát triển ổn định, năm 2020, có 29 hộ gia đình tham gia kinh tế trang trại; có 23 hộ được giao đất, cho thuê đất với diện tích 158,1 ha, có 17 hộ làm nhà cố định, diện tích đất sản xuất lên đến 52,2 ha. Các hộ chủ yếu tập trung phát triển chăn nuôi, trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, làm nấm và trồng rừng sản xuất; nhiều hộ triển khai mô hình trồng nghệ, trồng cỏ nuôi bò, nhân rộng diện tích trồng ném và các loại cây trồng khác[18].

Tiếp tục thực hiện chủ trương về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong các hợp tác xã nông nghiệp, Đảng bộ và chính quyền xã đã tăng cường củng cố, chấn chỉnh 2 hợp tác xã trên địa bàn hoạt động đúng theo qui định của pháp luật. Các hợp tác xã đã dần dần thích nghi với cơ chế kinh tế mới, phát huy năng lực sản xuất, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương. Các hợp tác xã được tổ chức phù hợp với năng lực, trình độ quản lý của cán bộ trên tinh thần tinh giảm bộ máy; các hoạt động của Ban quản lý hợp tác xã ngày càng đi vào nề nếp với hiệu quả quản lý ngày càng cao. Đảng bộ cũng đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ nông dân trên địa bàn xã nhà.

Nhằm tạo điều kiện cho các ngành sản xuất phát triển, xã tiếp tục khuyến khích việc mở rộng các ngành nghề dịch vụ trên địa bàn. Mạng lưới dịch vụ nhờ vậy đã sự phát triển khá đa dạng hơn trước. Năm 2008 số máy cày tay trên địa bàn xã đạt 32 máy, 04 máy cày lớn, 03 máy gặt lúa, máy thổi có 36 chiếc, máy bơm nước có 24 máy cùng nhiều phương tiện phục vụ sản xuất khác[19]. Đến năm 2011 ở địa bàn có 16 máy cày tay, 8 máy cày lớn, máy gặt lúa 03 cái, máy thổi lúa có 16 chiếc, máy bơm nước có 16 máy, máy xay sát 10 máy. Đặc biệt xã Quảng Thái được Trung tâm khuyến nông quốc gia hỗ trợ 1 máy gặt đập liên hiệp trị giá 172 triệu đồng hỗ trợ 75% giá trị tiền. Dịch vụ này giúp giải quyết khó khăn về sức lao động của nông dân, tạo thêm ngày công để nông dân đầu tư phát triển các việc khác[20].

Trong 10 năm trở lại đây, xã đã cố gắng phát triển làng nghề nấu rượu Lai Hà, một số loại hình dịch vụ ở khu vực trung tâm xã, chợ Nịu. Một số hoạt động kinh doanh, buôn bán tại chợ Nịu phát triển, góp phần làm thay đổi diện mạo khu vực trung tâm xã. Xã cũng đã nhận hỗ trợ đề án khuyến công, đầu tư cụm thiết bị chế biến tinh bột nghệ, máy ép tinh dầu lạc, tinh dầu dừa, chế biến mướp đắng sấy khô, sản xuất nấm cho 13 hộ ở khu vực trang trại[21]. Sự phát triển của ngành dịch vụ đã góp phần làm đa dạng hóa các loại hình hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn xã, phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động sản xuất cũng như đời sống của nhân dân.

Về lâm nghiệp, tiếp tục tập trung chỉ đạo công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, khiển khai chỉ thị 12-2003/CT.TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ và phát triển rừng. Đầu năm 2005, xã đã cho tiến hành trồng 25.000 cây keo lá tràm phân cho các thôn, các trường học và chủ trang trại. Thực hiện dự án DA 661 xã Quảng Thái đã tiến hành trồng 43 ha rừng phòng hộ trên cát, trồng 700 cây/ha. Các hộ gia đình được khuyến khích phát triển nâng cao mô hình trồng nấm ăn, nấm dược liệu, tính đến năm 2005 thì đã có 3 hộ gia đình tham gia với 14 vòm. Đến năm 2010, tiếp tục triển khai chăm sóc và trồng rừng mới theo dự án 661 trồng rừng phân tán 25.000 cây. Tổng diện tích trồng rừng là 137 ha[22]. Năm 2020, xã đã triển khai công tác chăm sóc và trồng rừng mới, trồng cây phân tán với khoảng 60 ha và 18,5 ha rừng ngập ngọt.

Về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, chính quyền xã đã linh hoạt, biết nắm bắt chính xác những ưu điểm sẵn có của xã nhà, thúc đẩy mô hình khai thác đánh bắt nuôi trồng thủy sản tại xã Quảng Thái phát triển một cách mạnh mẽ. Thực hiện chủ trưởng của cấp trên và căn cứ Quyết định số 1580/QĐ-UBND, ngày 12-10-2009 của UBND huyện Quảng Điền phê duyệt quy hoạch nò sáo và các nghề khai thác cố định trên Phá Tam Giang, Đảng ủy xã đã tập trung chỉ đạo, tuyên truyền vận động các hộ sắp xếp lại nò sáo trên phá Tam Giang… Loại hình nuôi cá lồng bè trên phá Tam Giang vào thời điểm năm 2010 có đến 350 lồng. Do chi phí ít, nguồn nước ít bị ô nhiễm, ít dịch bệnh, nguồn thức ăn lại có sẵn, nguồn tiêu thụ thuận lợi, chỉ có tốn công lao động tranh thủ lúc nông nhàn nên đem lại nguồn thu nhập ổn định và lợi nhuận khá cao cho nhân dân. Kế đến là khai thác và đánh bắt bằng nò sáo, bủa lưới, cào lươn, cào hến đã giải quyết cho hơn 300 lao động có việc làm thường xuyên[23]. Qua đó, phần nào đã cải thiện thu nhập của nhân dân, giúp cho nhân dân xã nhà ngày càng có một có cuộc sống tiện nghi và đầy đủ hơn trước.

Tổng giá trị đánh bắt và nuôi trồng trồng năm 2011 đạt 7,083 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2010. Sản lượng đánh bắt và nuôi trồng đạt 434,5 tấn so với kế hoạch đạt 108,6%, chính quyền xã nhà đã tăng cường công tác chỉ đạo nuôi trồng thủy sản năm 2011. Đánh bắt tự nhiên: theo thống kê có 251 hộ đánh bắt thủy sản trên phá Tam Giang và ao hồ tổng sản lượng khai thác 328,1 tấn đạt 108,5% kế hoạch, giá trị đạt 4,926 tỷ đồng. Số lượng nuôi cá lồng bằng bao lưới ở phá Tam Giang có 425 lồng, tăng 75 lồng so với năm 2010, tổng sản lượng đạt 98,5 tấn giá bán bình quân 30.000đ/kg, ước tính giá trị khoảng 2,955 tỷ đồng. Nuôi cá hồ trên địa bàn có 40 hồ diện tích 14,5 ha (kể cả nuôi cá lúa vùng ô Ba Họ của dự án bãi ngang). Sản lượng 7,6 tấn giá trị 228 triệu đồng[24]. Năm 2014, toàn xã thả nuôi 480 lồng với sản lượng cá nuôi đến đạt 250 tấn, sản lượng khai thác thủy sản trên đầm phá đạt 376 tấn. Xã cũng đã sắp xếp lại nò sáo, qui hoạch vùng nuôi trồng, tiến hành giao quyền khai thác mặt nước phá Tam Giang cho 2 chi hội nghề cá. Tổng giá trị thu được từ thủy sản từ 5,85 tỷ năm 2010 tăng mạnh lên 16,6 tỷ năm 2014[25] và 25 tỷ năm 2019.

Về kinh tế vườn, những giống cây của dự án cải tạo vườn tạp VAC đã được đầu tư, tạo bước chuyển biến mới mạnh mẽ, đặc biệt đã tạo ra mô hình trồng cây mướp đắng và một số cây hoa màu khác có hiệu quả kinh tế đáng kể. Đến năm 2010 việc triển khai nhân rộng mô hình trồng cây mướp đắng và một số cây hoa màu khác trên diện tích 15 ha, hàng năm thu về hiệu quả kinh tế khoảng 1,1 tỷ đồng.

Về công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, Đảng bộ và chính quyền xã đã có sự quan tâm đầu tư đúng mức, xây dựng các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất dân sinh như: điện, đường, trường, kênh mương thủy lợi.v.v.... Đến năm 2010, tổng vốn đầu tư toàn xã là 19,4 tỷ đồng. Các công trình thi công được tổ chức giám sát chặt chẽ nên chất lượng công trình đều đảm bảo. Quá trình phát triển đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được bố trí gắn liền với quy hoạch, nhất là những khu vực có vị trí gần với trung tâm của xã[26].

Giai đoạn 2000 - 2020, Đảng bộ đã có nhiều cố gắng để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư của cấp trên, của các tổ chức quốc tế cũng như huy động nhân dân đóng góp vốn để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, phúc lợi trên địa bàn xã gắn với chủ trương xây dựng nông thôn mới như hệ thống đường giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, đê đập… Tính đến năm 2011, hệ thống đường giao thông của xã (đường trục xã, liên xã, đường trục thôn, liên thôn, ngõ xóm và trục chính nội đồng) có tổng chiều dài là 56,24 km. Trong đó đường trục xã dài 6,6 km bao gồm Tỉnh lộ 4b và Tỉnh lộ 11c, được xem là trục đường trung tâm xã nối đến các thôn đã được thảm nhựa đạt tiêu chuẩn Quốc gia, đạt tiêu chí 100% cứng hóa. Tuyến đường liên thôn có tổng chiều dài là 9,78 km, mặt đường đã được bê tông hóa rộng 3m có 1,38km, mặt đường được bê tông hóa rộng 2,5m có 3,2 km, đạt 47% cứng hóa. Còn lại mặt đường đất cấp phối và đất cát dài 5,2 km.[27]

Trong 5 năm 2010-2015, tổng vốn đầu tư xã hội ước đạt 225 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng đạt 35,232 tỷ đồng, bao gồm nhà nước và các tổ chức đầu tư 31,632 tỷ; vốn ngân sách xã đối ứng, đầu tư và nhân dân đóng góp 3,598 tỷ. Tổng vốn đầu tư xã hội trong 5 năm 2015-2020 ước đạt 249,884 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách nhà nước 151,549 tỷ, các doanh nghiệp, hợp tác xã 10,304 tỷ, vốn ngân sách xã đối ứng, đầu tư và nhân dân đóng góp 88,031 tỷ[28]. Các công trình tiêu biểu như Nhà văn hóa xã, trụ sở xã, chợ mới, hệ thống điện chiếu sáng tỉnh lộ 4, các trường học, các tỉnh lộ qua địa bàn được mở rộng, cầu Nịu, trạm bơm Tây Hưng 2, hệ thống đê Đông – Tây Ô Lâu, các trạm bơm điện, hệ thống điện 3 pha, hệ thống đê, kênh… Các tuyến đường khác phần lớn cũng được bê tông hóa và thường xuyên được gia cố các tuyến đường đất cát. Qua đó, đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất nông nghiệp toàn diện, phục vụ giáo dục, dân sinh và văn hóa xã hội, đi lại, vận chuyển thuận tiện của nhân dân trong xã và các xã lân cận, đã phát huy được hiệu quả tích cực đến đời sống và sản xuất của nhân dân xã nhà.

            Hệ thống các công trình thủy lợi được chính quyền xã nhà đặc biệt quan tâm và chú trọng trong suốt chiều dài lịch sử hình thành gắn bó với làng, với xã. Các hệ thống công trình thủy lợi quan trọng trên địa bàn xã như hồ chứa nước tưới ở Nam Giảng tự chảy phục vụ tưới tiêu cho hơn 10 ha nông sản. Trạm bơm ở thôn Lai Hà tưới kết hợp bằng điện phục vụ tưới cho 100 ha lúa và nông sản, đáp ứng được 80% diện tích cần tưới. 02 trạm bơm tiêu ô Thất Lộc bằng dầu, 02 trạm bơm tiêu ô Hát Ngang, 01 trạm bơm ở Tây Hưng…hệ thống đê kè chống lũ, chống mặn cũng được chính quyền địa phương xây dựng một cách kiên cố hóa và có kế hoạch với 14 km kênh mương, 4 km đê kè và 20 cống thoát nước.

            Hệ thống điện trên địa bàn xã được cấp trực tiếp từ nguồn điện Quốc gia và luôn được đầu tư nâng cấp, sửa chữa đảm bảo phục vụ nhu cầu sử dụng của nhân dân trong sinh hoạt, sản xuất và phát triển dịch vụ. Năm 2011, toàn xã có 6 trạm biến áp hạ thế, tổng dung lượng là 1.060 KVA. Hệ thống dây điện hạ thế là 19,3 km, trong đó có 13,2 km đạt chuẩn và 6,1 km cần thay thế. Tỷ lệ hộ dân cư trong xã dùng điện đạt 99% và mức độ đáp ứng nhu cầu điện phục vụ cho sản xuất đạt 95% trên địa bàn toàn xã[29].

Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và các nghị quyết, chương trình hành động của Tỉnh ủy, Huyện ủy được Đảng bộ xã lãnh chỉ đạo sát sao, hiệu quả. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống được quan tâm đầu tư, từng bước cơ khí hóa, điện khí hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu của quá trình sản xuất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Bộ mặt nông thôn xã nhờ vậy có sự chuyển biến tích cực.

Về tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: Nhận thức đây là một lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tổng thể của xã nhà, Đảng bộ xã đã có những chủ trương duy trì và đẩy mạnh phát triển những ngành nghề hiện có, đặc biệt là nghề mộc, nề, dịch vụ xây dựng, vận tải, xay xát, máy cày, cung ứng vật tư ngày càng phát triển. Xây dựng làng nghề nấu rượu gạo truyền thống Lai Hà, bên cạnh đó đã hoàn thành 01 doanh nghiệp xăng dầu trên địa bàn xã.

Các loại hình dịch vụ trong xã đã có bước chuyển biến đáng kể, nhất là tại khu vực trung tâm xã, chợ Nịu. Một số ngành dịch vụ có bước biến chuyển mạnh mẽ tiêu biểu như dịch vụ vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, ăn uống giải khát… Qua đó, thu nhập trên lĩnh vực này cũng tăng lên một cách đáng kể là năm 2010 với 4,46 tỷ đồng và đến năm 2014 thì đã tăng lên 19,5 tỷ đồng[30], đến năm 2019 tăng lên 73,5 tỷ đồng[31].

Thực hiện chính sách phát triển hệ thống chợ và các trung tâm dịch vụ, mua bán, xã đã xây dựng mới chợ Nịu vào năm 2016, là chợ chính của xã được chuyển từ thôn Trung Kiều về là thôn Đông Hồ. Quy mô được xây dựng lớn hơn trước rất nhiều, cùng với việc cải tạo, sắp xếp các quầy bán hàng,… đã phần nào đáp ứng được nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của nhân dân xã nhà. Bên cạnh chợ Nịu thì còn có 02 chợ phụ khác ở Lai Hà và Tây Hoàng, được xây dựng ở giai đoạn sau này nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của bà con trong xã nhà một cách nhanh chóng và thuận tiện, phục vụ một cách hiệu quả nhu cầu thiết yếu và nâng cao chất lượng đời sống của bà con trong xã nhà [32].

Về dịch vụ vận tải, theo thống kê năm 2011, toàn xã đã có 10 xe ben vận tải nhỏ, 5 xe vận chuyển hàng hóa bảo đảm chất lượng, thu nhập bình quân mỗi xe 120 triệu đồng/năm, đồng thời với số lượng 90 chiếc đò máy, đây là loại phương tiện đánh bắt thủy sản và để giúp cho xã phục vụ nhu cầu trong mùa mưa lũ đáp ứng được nhiệm vụ phòng chống bão lụt tại địa bàn. Đến năm 2020, toàn xã có 10 ôtô vận tải hành khách, 11 xe ben vận tải nhỏ, 7 xe vận tải hàng hóa[33].

Về dịch vụ bưu chính viễn thông, trong năm 2011, số người sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông tăng hơn so với năm 2010, hiện có 3 trạm thu phát sóng viễn thông và hệ thống cáp điện thoại được rãi khắp trên toàn xã. Hiện nay trên địa bàn có 850 máy điện thoại bàn và 870 hộ gia đình dùng điện thoại di động, đáp ứng được nhu cầu cho việc trao đổi thông tin 2 chiều phục vụ tốt cho việc chỉ đạo của địa phương và phát triển kinh tế tại địa phương [34].

Về tài chính tín dụng, là một xã khó khăn trong khai thác nguồn thu nhưng bằng nhiều biện pháp tích cực, công tác thu ngân sách của xã luôn đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao. Hoạt động của bộ phận ngân sách trong công tác kết hợp thu các khoản, thu với chi cục thuế, ngoài ra thu tại xã có tiến bộ hơn. Đặc biệt là thu các loại quỹ trên địa bàn. Cụ thể trong năm theo kế hoạch ước tính vào năm 2011: Tổng thu 2.649.089.000 đồng, đạt 125,54%, trong đó, thu trên địa bàn 87.423.000 đồng. Tổng chi 2.449.089.000 đồng, đạt 116,07%, tồn quỹ 200 triệu đồng. Trong đó chi vào việc xây dựng nhà văn hóa là 100 triệu đồng và quy hoạch xây dựng nông thôn mới 100 triệu đồng. Trong năm 2011, các Ngân hàng như Ngân hàng NN&PTNT và Ngân hàng CSXH huyện đã mở điểm giao dịch tại địa bàn xã. Vốn vay thông qua các kênh đã tạo góp phần phục vụ sản xuất, chăn nuôi và các loại hình dịch vụ tạo việc làm, nâng cao hiệu quả kinh tế cho nhân dân[35].

Tổng thu ngân sách nhà nước trong 5 năm 2010- 2014 là 23,154 tỷ đồng, bình quân 4,36 tỷ đồng/ năm, riêng năm 2014 là 6,868 tỷ đồng (thu nội địa là 649 triệu)[36]; trong 5 năm 2015-2019 là 46,860 tỷ đồng, bình quân 9,37 tỷ đồng/ năm, riêng năm 2019 là 11,33 tỷ đồng (thu nội địa là 3,025 tỷ)[37]. Nhìn chung công tác thu ngân sách tại địa bàn đã tăng lên, đặc biệt là nguồn thu đấu giá quyền sử dụng đất, đã tác động tích cực cho nhiệm vụ xây dựng cơ bản và đối ứng với các công trình đầu tư vào địa bàn xã nhà.

Về quản lý tài nguyên - môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, Đảng bộ và chính quyền xã nhà luôn quan tâm và chú trọng đến công tác quản lý đất đai, đã tiến hành làm các thủ tục kiểm kê đất đai trong toàn xã, lập bảng đồ hiện trạng sử dụng và tiến hành đo đạt, cắm mốc đất trang trại vùng cát nội đồng, giải quyết kịp thời các tranh chấp khiếu nại về đất đai. Trong những năm 2015-2020, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo vận động người dân dồng thuận trong việc qui hoạch khu phố chợ vùng trung tâm xã theo Kết luận 195-KL/HU, được UBND huyện phê duyệt, từng bước triển khai xây dựng hạ tầng qui hoạch khu phố chợ.

Đảng bộ và chính quyền xã nhà luôn phát động, tuyên truyền vận động nhân dân khai thác tài nguyên một cách hợp lý ở vùng đầm phá; Ủy ban Nhân dân xã thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra trên vùng đầm phá và rú cát. Phong trào “Ngày chủ nhật xanh” được triển khai, thu hút nhân dân hưởng ứng. Việc thực hiện đề án thu gom và xử lý rác thải được nhân dân đồng tình ủng hộ, công tác dọn vệ sinh, môi trường ở các địa điểm công cộng, đường làng, ngõ xóm được chú trọng. Đảng bộ và chính quyền xã còn thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức chủ động cho người dân về ứng phó biến đổi khí hậu; luôn quan tâm, nắm bắt và chỉ đạo sâu sát về công tác phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và khắc phụ hậu quả do thiên tai gây ra.

- Về văn hóa - xã hội

Về giáo dục, giai đoạn 2000 - 2020, công tác giáo dục trên địa bàn xã đã tiếp tục có bước phát triển khá vững chắc cả về quy mô, số lượng cũng như chất lượng, cơ sở vật chất phục vụ việc dạy - học đã đáp ứng được nhu cầu học tập của con em trên địa bàn xã. Thông qua các nguồn vốn ngân sách của Nhà nước dành cho giáo dục, xã tập trung xây dựng mới, sửa chữa nâng cấp hệ thống trường lớp, tăng cường trang thiết bị, đồ dùng... Hệ thống trường lớp (mẫu giáo và phổ thông cơ sở) đã được tập trung tu sửa, xây dựng mới kiên cố và bán kiên cố. Giai đoạn 2010 - 2015, huy động trẻ 3 - 5 tuổi đến trường trên 90%, trong đó trẻ 5 tuổi đạt 100%. Huy động hầu hết trẻ em trong độ tuổi vào trường tiểu học, trong đó 100%  trẻ 6 tuổi vào lớp 1; trên 96% trẻ trong độ tuổi vào THCS, trong đó 100% học sinh hoàn thành bậc tiểu học vào lớp 6; trên 95% học sinh tốt nghiệp THCS vào THPT, bổ túc THPT, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường trung cấp nghề. Tỷ lệ bỏ học dưới 1%.

Về chất lượng đào tạo: Kết quả giáo dục giai đoạn 2010-2015 là rất khả quan, xã đã tăng tỷ lệ học sinh giỏi ở bậc Tiểu học lên 25%, ở THCS lên 12%, ở THPT lên 3%, giảm tỷ lệ học sinh yếu xuống dưới 3% đối với bậc Tiểu học, dưới 10% đối với bậc THCS và THPT. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học 100%, tốt nghiệp THCS, THPT trên 97%. Trong giai đoạn 2015-2020, Đảng ủy xã đã tập trung chỉ đạo hoàn thành qui hoạch mạng lưới trường học, đặc biệt là quy hoạch cụm tập trung ở ngành mầm non, thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non mới theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm học tập cộng đồng đã phát huy chức năng, nhiệm vụ đào tạo nghề. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia được các trường, Đảng uỷ, HĐND, UBND xã hết sức quan tâm, đã đầu tư kinh phí để chỉnh trang khuôn viên trường lớp, xây dựng cổng chào, tường rào. Được sự quan tâm của tỉnh, huyện, các trường học, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học được đầu tư xây dựng, được kiên cố hóa, đảm bảo khang trang, phục vụ nhu cầu dạy và học và từng bước đạt chuẩn Quốc gia. Trưởng Tiểu học Quảng Thái được công nhận đạt chuẩn Quốc gia vào năm 2015, trường THCS Lê Xuân và Trưởng Mầm non Quảng Thái phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia vào năm 2022.

Trình độ về mọi mặt cho đội ngũ giáo viên được nâng cao. Tính đến năm 2020, xã đã được công nhận đơn vị đạt chuẩn phổ cập giáo dục – xóa mù chữ mức độ 2, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập Trung học cơ sở mức độ 3, tiếp tục giữ vững trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ giáo viên được chú trọng, 100% giáo viên trong toàn xã đạt chuẩn theo qui định[38].

Xã đã tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, tiếp tục huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vất chất, mua sắm trang thiết bị cho các đơn vị và công tác này có nhiều thành tựu; tập trung chỉ đạo công tác khuyến học, khuyến tài; ở các thôn, ngành, dòng họ, công tác khuyến học, khuyến tài đều có những hoạt động tích cực và có ý nghĩa thiết thực, không ngừng củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng[39].

Đối với công tác y tế: Thực hiện chủ trương chăm lo phát triển mạng lưới y tế cơ sở, trong giai đoạn 2000 - 2020, xã đã tiếp tục thực hiện các chương trình quốc gia về y tế, vận động nhân dân tích cực tham gia bảo hiểm về y tế. Duy trì đơn vị Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục vệ sinh phòng bệnh, phòng chống các bệnh nguy hiểm như tả, sốt xuất huyết, thương hàn, phòng chống lây nhiễm HIV… Trong năm 2005 tiếp nhận khám chữa bệnh cho 5793 lượt người khám, bảo hiểm y tế cho 3648 lượt người... Trạm y tế được công nhận là đơn vị đạt chuẩn Quốc gia về y tế xã vào năm 2004 và duy trì đạt chuẩn cho đến hiện này, tiếp tục giữ vững và phát huy tốt vai trò của Trạm y tế trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân.

Tính đến năm 2011, Trạm y tế về cơ bản đã được xây dựng 02 tầng tại vị trí trung tâm xã, đội ngũ cán bộ hầu hết đã qua đào tạo chuyên môn, trong đó có một bác sĩ. Công tác khám và chữa bệnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao so với kế hoạch năm đề ra; công tác phòng dịch luôn được chú trọng, không để các dịch lớn xảy ra trên địa bàn. Công tác dân số luôn được quan tâm[40].

Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động dân số Kế hoạch hóa gia đình, vận động nhân dân thực hiện Pháp lệnh dân số một cách nghiêm túc. Tổ chức các hoạt động lồng ghép Kế hoạch hóa gia đình, thực hiện tốt các biện pháp tránh thai, hạ thấp tỷ lệ không sinh con thứ 3 trở lên ở mức dưới 10%. Xây dựng cụm dân cư, câu lạc bộ không sinh con thứ 3 trở lên, góp phần hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm còn dưới 1,05%. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, hướng dẫn và vận động phụ nữ là mẹ đang thời kỳ đầu nuôi trẻ ứng dụng các kiến thức khoa học nuôi và chăm sóc trẻ. Tỷ lệ dùng nước sạch hợp vệ sinh 100%, trong đó hộ dùng nước máy đạt trên 90% [41].

Đến năm 2020, chất lượng khám chữa bệnh tại trạm y tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, với trang thiết bị khám chữa bệnh được cấp trên quan tâm đầu tư; lực lượng y tế thôn hoạt động ngày càng có hiệu quả. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện ngày càng tăng, đưa tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế lên 100%. Công tác chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em được quan tâm, tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm từ 17,6% năm 2010, xuống còn 11,86% năm 2014 và còn 9,8% năm 2019[42].

Về văn hóa - thông tin, thể dục thể thao, các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao cũng được Đảng ủy xã thường xuyên tổ chức vào các ngày lễ lớn, dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Các thôn trên địa bàn đều có đội bóng đá, bóng chuyền, các đội văn nghệ. Các hoạt động văn nghệ, thi đấu bóng đá giao hữu giữa các thôn, xóm… được tổ chức ngày càng thường xuyên đã tạo ra không khí vui tươi, lành mạnh trong nhân dân, được đông đảo quần chúng nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Thông qua các hoạt động, Đảng ủy Quảng Thái đã kịp thời tuyên truyền những quan điểm đổi mới của Đảng đến tận mọi tầng lớp nhân dân.

Trên tinh thần Nghị quyết TW 5 về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 1610/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Công nhận đạt chuẩn văn hóa, hiện nay có 7/7 thôn và các cơ quan đơn vị trên địa bàn được công nhận đạt chuẩn văn hóa, có 1.236 gia đình được công nhận gia đình văn hóa.

Tính đến năm 2011, xã đã quy hoạch được khu trung tâm văn hóa - thể thao xã, bao gồm cả nhà văn hóa xã với tổng diện tích là 2.5002 ở khu vực trung tâm xã. Bên cạnh đó xã còn có 01 sân bóng đá với diện tích 90m x 120m để tổ chức các hoạt động thể dục - thể thao trong địa bàn toàn xã[43]. Xã đã tăng cường củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động mạng lưới đài truyền thanh, đảo đảm được giờ giấc phát thanh. Các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thường xuyên được tuyên truyền, triển khai kế hoạch các nội dung tuyên truyền các ngày lễ lớn, hoàn thành đại hội thể dục thể thao lần thứ IV năm 2013.

Về các công tác xã hội, là một xã còn nhiều khó khăn của huyện Quảng Điền nên công tác xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Bằng nhiều biện pháp linh hoạt, xã đã bố trí nguồn vốn và thực hiện lồng ghép các nguồn vốn đối với các hộ đói nghèo và các gia đình chính sách để cho họ có vốn làm ăn. Thông qua các tổ chức đoàn thể của địa phương như hội Nông dân, hội Phụ nữ…, các chương trình dự án, xã đã tạo điều kiện trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, cây con giống để các hộ có cơ sở vươn lên thoát nghèo, từng bước ổn định đời sống. Nhờ thực hiện tốt các chính sách xóa đói giảm nghèo, đến năm 2010, số hộ nghèo trên địa bàn còn 152 hộ giảm được 161 hộ so với năm 2005; nhà tạm xóa được 89 nhà, trong đó có 31 hộ thuộc gia đình chính sách và 58 nhà thuộc hộ nghèo[44].

Trong giai đoạn 2010 - 2015, từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và các tổ chức, chính quyền xã đã thực hiện xây mới 49 nhà ở cho các gia đình hộ nghèo, xây mới 41 nhà và thực hiện sửa chữa 67 nhà ở cho các gia đình thuộc đối tượng chính với tổng giá trị là 3,841 tỷ đồng[45]. Giai đoạn 2015-2020, công tác đào tạo nghề được chú trọng, đã vận động người lao động đi làm việc tại các thị trường Nhật Bản, Úc, Malaysia,... góp phần ổn định đời sống.  Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 20 triệu đồng/người/năm (2014) lên 36 triệu đồng/người/năm (2019), tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10,79% năm 2014 xuống còn 8,24% năm 2019. Bằng nhiều nguồn vốn, xã đã xây mới 21 nhà ở cho hộ nghèo; xây mới 07 nhà, sửa chữa 13 nhà ở cho các đối tượng chính sách với giá trị 1,46 tỷ đồng[46].

Việc chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách được chú trọng đã góp phần thực hiện tốt đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc... Toàn xã có 433 liệt sỹ, trong đó hy sinh trong kháng chiến chống Pháp 75 là người, trong kháng chiến chống Mỹ là 352 người, thời kỳ bảo vệ Tổ quốc sau năm 1975 là 6 người; xã có 39 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (số liệu tháng 12 năm 2019). Là một xã có nhiều đối tượng chính sách như thế nên vấn đề chăm sóc gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng bà mẹ Việt Nam anh hùng là vấn đề được sự quan tâm của địa phương vào các dịp lễ, tết đều có trách nhiệm thăm hỏi tặng quà. Vào năm 2010, chính quyền xã nhà đã tổ chức tặng quà cho các gia đình chính sách trong dịp lễ tết, tổng số kinh phí 167.900.000 đồng (của Chủ tịch nước 77.600.000 đồng, của tỉnh huyện 90.300.000 triệu đồng)[47]. Những thành tựu đó đã làm tăng thêm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới, là động lực để nhân dân Quảng Thái tiếp tục xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

- Về quốc phòng - an ninh

Đảng bộ xã đã tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới và cuộc vận động xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Đảng bộ thường xuyên xem trọng xây dựng và nâng cao chất lượng quân đội, công an, dân quân tự vệ, dự bị động viên về mọi mặt. Đảng bộ thường xuyên quan tâm củng cố xây dựng các địa bàn trọng yếu. Chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và giải quyết khá kịp thời các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm tiếp tục được đẩy mạnh đã góp phần kiềm chế gia tăng tội phạm, giữ gìn trật tự giao thông, trật tự công cộng và các tệ nạn xã hội, không để ma túy xâm nhập vào địa bàn.

Trong năm 2010, Đảng bộ và chính quyền xã đã tổ chức triển khai các văn bản quy định về chế độ, chính sách đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương bổ sung cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trên địa bàn.  

Đảng bộ đã thường xuyên xem trọng xây dựng và nâng cao chất lượng Quân đội, Công an, dân quân tự vệ, dự bị động viên về mọi mặt; thường xuyên củng cố phương án sẵn sàng chiến đấu, nâng cao khả năng phòng thủ địa bàn và phòng chống bạo loạn, hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân và kế hoạch huấn luyện, diễn tập. Đồng thời, đã tổ chức tốt lực lượng tham gia tích cực có hiệu quả công tác phòng, chống bão lụt, cứu hộ, cứu nạn, giúp đỡ nhân dân phòng chống và khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng "Cơ sở an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu" và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng Dân quân công an bảo đảm độ tin cậy và ngày càng vững mạnh.

Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, Đảng bộ đã chỉ đạo các lực lượng trên địa bàn xã làm tốt công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động chống phá, hạn chế không để xảy ra điểm nóng trên địa bàn, kịp thời xử lý tốt các vụ tranh chấp đất đai, khiếu nại tố cáo của công dân, các tệ nạn xã hội được kiềm chế. Xã đã thực hiện tốt Nghị quyết 32 của Chính phủ về hạn chế tai nạn giao thông. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm được triển khai thực hiện tốt. Theo kế hoạch đưa lực lượng công an chính quy về cấp xã, xã đã tiếp nhận 05 đồng chí công an chính qui về tăng cường. Trong đó, 1 đồng chí làm Trưởng công an xã, 1 đồng chí làm Phó công an xã, 3 công an viên. Năm 2020, xã đã tổ chức gọi hỏi và cho làm cam kết không vi phạm pháp luật cho 52 đối tượng liên quan và 55 hộ gia đình có con em đi Lào và các tỉnh phía Bắc về trên địa bàn, phối hợp xử lý 22 đối tượng phạm pháp hình sự[48]...

Trong giai đoạn 2016 - 2020, trên địa bàn xã đã có 38 thanh niên nhập ngũ và hàng chục thanh niên hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương, trong đó đã có nhiều quân nhân được kết nạp đảng viên trong quân đội. Đảng bộ và chính quyền xã thường xuyên quan tâm đến công tác phát triển kết nạp Đảng trong lực lượng dân quân, công an viên.

Tóm lại, công tác tuyển quân, huấn luyện hàng năm đều đạt chỉ tiêu, kế hoạch và có chất lượng quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên, chăm lo công tác giáo dục nâng cao cảnh giác, chống âm mưu "Diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân, nắm bắt, xử lý kịp thời các vụ việc đã góp phần xây dựng nền Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm được triển khai tích cực, đã giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

6.2.3. Đảng bộ Quảng Thái với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới

Ngày 04-6-2010, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 800/QĐ-TTG phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, gồm 11 nội dung.

Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng ủy đã ban hành Nghị quyết về “Xây dựng xã nông thôn mới Quảng Thái giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020”. Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy về xây dựng nông thôn mới, xã Quảng Thái đã đạt được một số kết quả tích cực là hoàn thành công tác qui hoạch xây dựng nông thôn mới của xã; Đảng bộ và chính quyền xã nhà đã cùng với nhân dân tận dụng các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân đóng góp cũng như từ các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài với tổng vốn huy động đầu tư xây dựng nông thôn mới là 43,914 tỷ đồng; trong đó vốn Nhà nước đầu tư 34,903 tỷ, ngân sách xã 3,078 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 5,932 tỷ đồng[49]. Các công trình tiêu biểu như Nhà văn hóa xã, trụ sở xã, chợ mới, hệ thống điện chiếu sáng tỉnh lộ 4, các tỉnh lộ được mở rộng, các trường học, cầu Nịu, trạm bơm Tây Hưng 2, hệ thống đê Đông – Tây Ô Lâu, các trạm bơm điện, hệ thống điện 3 pha, hệ thống đê, kênh… Các tuyến đường khác được xây dựng, tu sửa đều khắp. Đó là các tuyến đường giao thông liên thôn, các tuyến đường nội đồng bằng xi măng khác phần lớn cũng được bê tông hóa và thường xuyên được gia cố các tuyến đường đất cát. Qua đó, đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất nông nghiệp toàn diện, phục vụ giáo dục, dân sinh và văn hóa xã hội, đi lại, đã phát huy được hiệu quả tích cực đến đời sống và sản xuất của nhân dân xã nhà, xây dựng nông thôn mới. Tính đến năm 2015 thì xã Quảng Thái đã đạt 12/19 tiêu chí trong chương trình xây dựng nông thôn mới.

UBND xã tổ chức sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, tổng kết 05 năm, 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, điều chỉnh quy hoạch nông thôn mới xã Quảng Thái giai đoạn 2016-2020, ban hành Kế hoạch về tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”“Giảm nghèo bền vững”. Đã xây dựng kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2015-2020, đề án thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn xã, kế hoạch “Ngày Chủ nhật Xanh”...

Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng bộ và chính quyền xã nhà đã cùng với nhân dân tận dụng các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân đóng góp cũng như từ các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài với tổng mức vốn đầu tư trên địa bàn xã là 222,723 tỷ, trong đó, ngân sách nhà nước đầu tư 81,562 tỷ đồng (36,6%), doanh nghiệp và các hợp tác xã 55,152 tỷ đồng (24,8%), nhân dân đóng góp 86,009 tỷ đồng (38,6%) để thực hiện xây dựng, tu sửa các tuyến đường giao thông liên thôn, các tuyến đường nội đồng bằng xi măng. Thực hiện chủ trương nhà nước hỗ trợ xi măng để bê tông hóa giao thông nông thôn, UBND huyện và UBND xã đã hỗ trợ hơn 1.300 tấn xi măng, nhân dân đóng góp hàng chục tỷ đồng cùng với hàng ngàn ngày công lao động để thi công các tuyến đường xóm, kiệt của tất cả các thôn trên địa bàn. Đến năm 2020, đã bê tông hóa 23/27 km đường bê tông xóm, kiệt, đạt tỷ lệ 85%.

Trong quá trình thực hiện chương trình này tại xã, công tác triển khai được tiến hành chủ động, phối hợp chặt chẽ trong công tác vận động, tuyên truyền nhân dân tổ chức thực hiện các tiêu chí, không thụ động trông chờ, ỷ lại vốn của Trung ương và của Tỉnh; xác định tiêu chí nào thuận lợi sẽ cho triển khai thực hiện trước, vận dụng mọi nguồn lực của địa phương nhất là nguồn lực từ trong dân để đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập nhằm giảm nghèo, xây dựng cảnh quan môi trường, dân sinh xây dựng quê hương giàu đẹp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã Quảng Thái, trong 20 năm tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới (2000 - 2020), nền kinh tế của xã nhà đã chuyển dịch theo hướng tích cực, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển ngày càng đa dạng. Sản lượng lương thực có hạt tăng dần theo từng năm. Kết cấu hạ tầng được đầu tư, hệ thống cơ sở vật chất trường lớp phục vụ công tác giáo dục, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, thủy lợi… cũng như nhiều công trình phúc lợi công cộng khác như trụ sở xã, nhà họp thôn, nghĩa trang liệt sĩ xã, chợ… được cải tạo, xây dựng mới đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của xã nhà.

Quá trình tổ chức triển khai, xác định nội dung quan trọng nhất là nâng cao nhận thức về ý nghĩa tầm quan trọng, nhiệm vụ của người dân và cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng xã Nông thôn mới. Từ đó các tiêu chí đã thực hiện tốt, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” tiến hành duy tu, sửa chữa các tuyến giao thông, đê bao thủy lợi; phong trào vận động phát triển kinh tế hợp tác; ý thức về chuyển đổi cây trồng, vật nuôi được nhân dân hưởng ứng nên năng suất, chất lượng nông sản không ngừng được tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện.

Công tác giảm nghèo, chính sách đền ơn đáp nghĩa và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới ngày càng được nhân dân hưởng ứng tích cực. Thu nhập người dân ngày càng nâng cao, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được đầu tư nâng cấp, trật tự xã hội được đảm bảo, cảnh quan môi trường được sạch đẹp, nhân dân đầu tư hệ thống điện chiếu sáng thôn xóm, quy chế dân chủ được phát huy, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Đến tháng 6 năm 2020, xã đã đạt 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới và được Công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới theo Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế.

6.2.4. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể

Về công tác chính trị tư tưởng, Đảng ủy Quảng Thái tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện công tác chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6. Qua quá trình thực hiện nghị quyết, cán bộ đảng viên trong toàn Đảng bộ đã nâng cao nhận thức về lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, nắm vững quan điểm và đường lối của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.

Các cấp ủy Đảng từ xã đến các thôn thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng đến tận cán bộ, đảng viên và nhân dân, phát huy tính năng động, sáng tạo, trí tuệ của tập thể trong các hoạt động của cấp ủy Đảng. Trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là sau vụ khủng bố ở Mỹ ngày 11-9-2001 công tác chính trị được thường xuyên chú trọng đã làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có chuyển biến tốt trong nhận thức, thể hiện sự nhất trí cao và tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo.

Về công tác tổ chức cán bộ, thực hiện kế hoạch số 13-KH/HU ngày 08-5-2007 của Ban Thường vụ Huyện ủy “Về củng cố tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của chi bộ và lực lượng chính trị ở thôn có mặt hạn chế, nhược điểm từ nay đến năm 2010, Đảng bộ đã thường xuyên củng cố lại tổ chức các chi bộ. Thực hiện Dự án 513 điều chỉnh địa giới hành chính, tại kỳ họp thứ 11 Khóa VI, HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế đã thông qua Nghị quyết số 09/NQ-HĐND ngày 11-12-2015 về sáp nhập các thôn trên địa bàn toàn tỉnh, trong nhiệm kỳ 2015- 2020, đảng bộ đã tiến hành nhập hai thôn Đông Hồ và Đông Cao thành thôn Đông Hồ (có 279 hộ, 1572 khẩu) và thành lập chi bộ Đông Hồ trên cơ sở sáp nhập 2 chi bộ Đông Hồ và Đông Cao cũ. Năm 1990, Đảng bộ có 8 chi bộ, thì đến năm 2000 có 10 chi bộ và đến nay (2020) đã có 13 chi bộ. Trong đó có 07 chi bộ thôn (Tây Hoàng, Lai Hà, Trung Làng, Trung Kiều, Trằm Ngang, Nam Giảng, Đông Hồ), 3 chi bộ trường học, 3 chi bộ Quân sự, công an và y tế.

Đảng bộ đã luôn quan tâm làm tốt công tác tổ chức, hoàn thành qui hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ đã cử 16 đồng chí tham gia các lớp bối dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị tại tỉnh và huyện, nhiệm kỳ 2015-2020 cử 06 đồng chí bồi dưỡng lý luận tại trường chính trị Nguyễn Chí Thanh và 17 cán bộ, công chức tham gia lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước chương trình chuyên viên tại Trung tâm chính trị huyện. Trong công tác phát triển Đảng, nhiệm kỳ 2010-2015, kết nạp được 47 đồng chí vào Đảng nâng số đảng viên lên 174 đồng chí, trong nhiệm kỳ 2015-2020, kếp nạp được 29 đảng viên, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 200 đồng chí[50].  

Công tác kiểm tra, phân loại, đánh giá chất lượng đảng viên, chính sách đối với đảng viên được tiến hành thường xuyên. Nếu trong những năm 2010-2015, Đảng bộ đã tiến hành kỷ luật 07 đồng chí đảng viên, thì đến những năm 2015-2020, đã tiến hành kỷ luật 14 đồng chí, trong đó khiển trách 9 đồng chí, cảnh cáo 5 đồng chí, xóa tên 1 đồng chí và đề nghị cho ra khỏi đảng 4 đồng chí[51].

Trong việc triển khai việc thực hiện Chỉ thị số 05-BCT/TW ngày 15-5-2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh” gắn với việc thực hiện nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; và cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được Đảng bộ tiến hành thường xuyên, liên tục và bước đầu có những kết quả đáng khích lệ. Cán bộ, đảng viên có trách nhiệm cao hơn trong công việc, tinh thần, thái độ, ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân được nâng lên. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.  

Giai đoạn 2000 - 2020, Đảng bộ xã Quảng Thái trải qua 4 kỳ Đại hội. Đại hội lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2000 - 2005), Bí thư là đồng chí Văn Đức Thống, Đại hội lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005 - 2010), Bí thư là đồng chí Văn Đức Thống, Đại hội lần thứ X (nhiệm kỳ 2010 - 2015), Bí thư là đồng chí Văn Vinh. Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020), Bí thư là đồng chí Trần Hải. Trong năm 2020, Đại hội lần thứ XII (nhiệm kỳ 2020-2025) cũng được tiến hành thành công, Ban chấp hành Đảng bộ gồm 15 đồng chí do đồng chí Trần Hải làm Bí thư Đảng bộ.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của xã đã có nhiều cố gắng trong nhiều hoạt động phong trào, đặc biệt là phong trào thanh niên trong khối trường học đã phát huy được sức mạnh của tuổi trẻ, hỗ trợ đắc lực cho nhiều hoạt động văn hóa xã hội của địa phương. Các phong trào nổi bật là tình nguyện trong công tác hiến máu nhân đạo, phong trào “Ngày Chủ nhật Xanh” làm sách thôn xóm, vệ sinh môi trường, các phong trào trồng cây gây rừng...

Hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ xã Quảng Thái ngày càng có chiều sâu, góp phần tích cực trong các phong trào, đặc biệt là phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”. Qua nhiều hoạt động sôi nổi, Hội Liên hiệp phụ nữ xã đã phát huy được năng lực, sở trường của chị em phụ nữ trong nhiều hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần to lớn vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Hội Nông dân xã được kiện toàn về tổ chức đã tập hợp được lực lượng nông dân trên địa bàn xã. Hội viên luôn đi đầu trong các phong trào thi đua lao động, phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp, tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đầu tư vốn sản xuất kinh doanh, xây dựng các mô hình sản xuất giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, góp phần đắc lực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở xã nhà.

Phát huy truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, Hội Cựu chiến binh đã tích cực tham gia các hoạt động của chính quyền xã, góp phần tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền; tham gia giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, là nòng cốt trong các phong trào phòng chống tệ nạn xã hội, tiêu cực, tham những. Tổ chức Hội tiếp tục được củng cố vững mạnh, thực sự là chỗ dựa tin cậy cho các cấp ủy Đảng và chính quyền trong xây dựng và bảo vệ quê hương.

Công tác dân vận được Đảng ủy chú trọng, với phương châm mưa dầm thấm lâu, hệ thống chính trị từ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các Tổ chức đoàn thể thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đưa các chủ trương, chính sách Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định và thực hiện, như Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, nên trong giai đoạn này đã tập trung lãnh chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị được cấp trên đánh giá cao. Cụ thể là giải phóng mặt bằng di dời mồ mả một số khu vực, giải phóng mặt bằng... và nhiều hạng mục, nội dung công việc để xây dựng nông thôn mới. Nhờ đó, góp phần vào thành công chung của xã nhà đạt chuẩn xã nông thôn mới năm 2020.

Đảng bộ xã Quảng Thái luôn xem trọng công tác xây dựng Đảng trên tất cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cho toàn bộ Đảng viên, phát động mạnh mẽ thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thường xuyên đấu tranh chống mọi biểu hiện cơ hội, tham nhũng lãng phí cục bộ, cá nhân và những biểu hiện tiêu cực khác trong Đảng.

Đảng bộ, các chi bộ đã tăng cường tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chi bộ. Xây dựng đề án và tổ chức thực hiện đề án nâng cao năng lực hoạt động của chi bộ thôn, từ 2010 đến 2020 không có chi bộ yếu, hàng năm có từ 9 -10/12 chi bộ trong sạch vững mạnh, Đảng bộ do yếu tố khách quan, nên có 4 năm liền đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ và 1 năm trong sạch vững mạnh. Công tác quy hoạch cán bộ đã có chuyển biến; có những cố gắng về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cũng như việc đánh giá đề bạt, bố trí cán bộ thực hiện đúng quy trình, công tác phát triển Đảng... [52].

***

Với những nỗ lực phấn đấu không ngừng, từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, giai đoạn 1990-2020, Đảng bộ và chính quyền xã Quảng Thái đã tạo nên bước chuyển mình mạnh mẽ, tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh của xã nhà. Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Thái đã giành được rất nhiều thành tựu, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng bộ xã, nền kinh tế của xã có sự phát triển vượt bậc, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất được thực hiện tốt đã tạo ra động lực mới thúc đẩy kinh tế nông nghiệp xã nhà phát triển. Tỷ trọng giống mới đưa vào sản xuất ngày càng tăng, hệ thống thủy lợi được cải thiện đáng kể, giao thông liên thôn liên xóm được nâng cấp, mạng lưới điện đã trải khắp các thôn trong xã, hệ thống thông tin liên lạc có bước phát triển vượt bậc, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế trên địa bàn xã do đó đã tăng lên đáng kể. Chính nhờ những thành quả đó mà chất lượng mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã được nâng lên một bước, bộ mặt nông thôn xã nhà có nhiều khởi sắc, an ninh quốc phòng được giữ vững, hệ thống chính trị cơ sở ngày càng được củng cố...

Những thành tựu đổi mới mới trước hết là nhờ những cố gắng nỗ lực và cố gắng hết mình của Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Thái. Đảng bộ xã là nơi phát xuất đồng thời trực tiếp đưa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào đời sống, đi vào thực tiễn sản xuất, trực tiếp đề ra các chính sách và chỉ đạo nhân dân toàn xã thực hiện phù hợp với tình hình của xã nhà.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong giai đoạn này, việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Quảng Thái theo tinh thần Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng các cấp, xã Quảng Thái vẫn còn một số nhược điểm, thiếu sót nhất định. Đó là, nền kinh tế của xã tuy có nhiều chuyển biến tích cực song vẫn là một nền kinh tế thuần nông, tự cung, tự cấp và chịu sự tác động lớn của tình hình thời tiết; cơ sở hạ tầng của xã tuy có tiến bộ song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống trong tình hình mới, tư tưởng sản xuất hàng hóa còn thấp, việc ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của từng hợp tác xã cũng như các tầng lớp trong nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Các tiềm năng và thế mạnh của xã chưa được chú ý khai thác một cách có hiệu quả, các ngành tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống của xã còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng và chưa có hướng tháo gỡ. Kinh tế vườn, kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân tuy có phát triển nhưng còn nhỏ lẻ và manh mún. Đâu đó, một bộ phận người dân vẫn còn thiếu ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường.

Việc điều hành, quản lý của Ban chủ nhiệm các hợp tác xã tuy có nhiều đổi mới song còn lúng túng, hiệu quả đạt được chưa thật cao, vốn tích lũy và vốn lưu động còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức vươn lên để làm dịch vụ cho xã viên. Tổ chức kinh tế hợp tác xã trong quá trình chuyển đổi phương thức quản lý, kinh doanh bước đầu còn lúng túng, còn khoán trắng cho các hộ xã viên, chưa tìm ra sức bật mới để làm chỗ dựa cho kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân phát triển.

Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ và nhân dân Quảng Thái đã giành những thắng lợi to lớn từ sản xuất kinh tế đến các mặt văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Qua những thành tựu to lớn mà nhân dân xã nhà đã đạt được, có thể nhận thấy vai trò to lớn, quyết định của Đảng bộ xã Quảng Thái trong quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đảng bộ xã đã lãnh đạo mọi mặt đời sống của nhân dân, từ sản xuất nông nghiệp đến kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước cấp cơ sở. Từ phát triển kinh tế đến công tác an ninh quốc phòng, giải quyết các vấn đề chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe gia đình trẻ em, chăm lo sự nghiệp giáo dục đến các công tác xây dựng các đoàn thể quần chúng nhân dân.

Sự phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của xã nhà trong giai đoạn 1990 - 2020 không phải là sự phát triển có tính thời đoạn mà là sự kế thừa, tiếp nối liên tục. Đó là sự tiếp nối truyền thống cách mạng của quê hương qua các giai đoạn lịch sử, để rồi cùng với cả nước, Đảng bộ Quảng Thái đã lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Quảng Thái hôm nay đã thay da đổi thịt, bộ mặt của quê hương đã có nhiều đổi mới. Thành quả đó của Đảng bộ và nhân dân Quảng Thái trong suốt chặng đường dài lịch sử là cơ sở cho xã nhà tiếp bước truyền thống cách mạng của cha ông, tiếp tục xây dựng quê hương Quảng Thái ngày càng giàu về kinh tế, vững về an ninh quốc phòng, đẹp về văn hóa.

 

 


[1] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr. 232.

[2] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr. 249 - 250.

[3] Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Điền (1930-2005), Sđd, tr. 257.

[4] Theo lời kể của đồng chí Hồ Viết Tây.

[5] Theo lời kể của đồng chí Hồ Viết Tây.

[6] Theo lời kể của đồng chí Hồ Viết Tây.

[7] Đảng ủy xã Quảng Thái (2020), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.1

[8] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.1.

[9] Đảng ủy xã Quảng Thái (2005), Dự thảo báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái (khóa IX) trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X, tr.2.

[10] UBND xã Quảng Thái (2005), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006, tr.1

[11] UBND xã Quảng Thái (2012), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2012 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, tr.1.

[12] UNND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo kế hoạch kinh tế - xã hội thời kỳ 2011 - 2015, tr.2.

[13] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.2.

[14] Đảng ủy xã Quảng Thái (2015), Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.2.

[15] Đảng ủy xã Quảng Thái (2010), Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái (khóa IX) trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X nhiệm kỳ 2010 - 2015, tr. 3.

[16] Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.2.

[17] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.2.

[18] Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.2

[19] UBND xã Quảng Thái (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009, tr.5.

[20] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo tình hình thực kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, tr.4.

[21] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.2.

[22] UBND xã Quảng Thái (2005), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, tr.3.

[23] UBND xã Quảng Thái, Đề án xây dựng xã Nông thôn mới xã Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến 2020, tr.9.

[24] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo tình hình thực kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, tr. 3-4.

[25] Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.2.

[26] Đảng ủy xã Quảng Thái (2010), Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái (khóa X) trình Đại hội Đảng bộ lần thứ X, tr.4.

[27] UBND xã Quảng Thái, Đề án xây dựng xã Nông thôn mới xã Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến 2020, tr.5.

[28] Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.3.

[29] UBND xã Quảng Thái, Đề án xây dựng xã Nông thôn mới xã Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến 2020,tr.6.

[30] Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.2.

[31] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.3.

[32] UBND xã Quảng Thái (2011), Đề án xây dựng xã nông thôn mới Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020, tr.7.

[33] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.3

[34] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo tình hình thực kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, tr.4-5.

[35] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo tình hình thực kinh tế - xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, tr.6.

[36] UBND xã Quảng Thái (2011), Đề án xây dựng xã nông thôn mới Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020, tr.4.

[37] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.3.

[38] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.3.

[39] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế thời kỳ 2011-2015, tr.15-16.

[40] UBND xã Quảng Thái (2011), Đề án xây dựng xã Nông thôn mới Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020, tr.10.

[41] UBND xã Quảng Thái (2011), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế thời kỳ 2011 - 2015, tr.16.

[42] Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.7.

[43] UBND xã Quảng Thái (2011), Đề án xây dựng xã Nông thôn mới Quảng Thái huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020, tr.7.

[44] Đảng ủy xã Quảng Thái (2010), Dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái (Khóa IX) trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X, tr. 5-6.

[45] Đảng ủy xã Quảng Thái (2015), Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.7.

[46] Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.7.

[47] UBND xã Quảng Thái (2010), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, tr.9-10.

[48] UBND xã Quảng Thái (2020), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020; phương hướng nhiệm vụ năm 2011, tr.11.

[49] Đảng ủy xã Quảng Thái (2015), Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.5.

[50] Đảng ủy xã Quảng Thái (2015), Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ xã Quảng Thái lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, tr.10. Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.10.

[51] Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ xã Quảng Thái trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII nhiệm kỳ 2020-2025, tr.11.

[52] Đảng ủy xã Quảng Thái (2010), Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ xã Quảng Thái (khóa IX) trình Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X, tr. 6-7.

 

Tin cùng nhóm
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 10.468.342
Truy cập hiện tại 13.282