|
Bác Hồ thăm khu công nghiệp Dầu khí Bacu (Liên Xô cũ) năm 1959 |
Từ những quyết sách đầu tiên
Ngay sau chuyến thăm khu công nghiệp dầu lửa Bacu (nước Azerbajan, thuộc Liên Xô cũ) vào ngày 23/7/1959 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều cán bộ đã được Đảng và Nhà nước cử sang Liên Xô, cũng như các nước xã hội chủ nghĩa để học các chuyên ngành về dầu khí. Liên Xô cũng đã cử nhiều chuyên gia có kinh nghiệm giúp Việt Nam nghiên cứu khảo sát, đánh giá triển vọng dầu khí, từ đó xây dựng kế hoạch tổng thể về công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc mang tên “Báo cáo triển vọng dầu và khí ở miền Bắc Việt Nam”.
Trên cơ sở đó, Đoàn Thăm dò dầu lửa số 36 đã được thành lập ngày 27/11/1961. Nhưng do chiến tranh với bao khó khăn thiếu thốn, hiểm nguy, bom đạn, phải sau 14 năm, Đoàn 36 mới phát hiện dòng khí thiên nhiên và condensate có giá trị thương mại tại giếng khoan 61 Tiền Hải (Thái Bình) với trữ lượng xác minh đến 1,3 tỷ m3, cung cấp nhiều thông tin quý giá về cấu trúc địa chất và tiềm năng dầu khí ở miền võng Hà Nội và vùng trũng An Châu.
“Tôi nghĩ Việt Nam chúng tôi có biển, nhất định sẽ có dầu”. Khắc ghi và quyết tâm thực hiện nguyện vọng của Bác Hồ, chỉ chưa đầy 3 tháng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã nghĩ ngay tới việc phải xây dựng ngành công nghiệp dầu khí. Dựa trên đánh giá tiềm năng lớn ở thềm lục địa Việt Nam, ngày 9/8/1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 244-NQ/TW về việc triển khai thăm dò dầu khí trên cả nước. Đây cũng chính là văn bản đầu tiên về dầu khí của Đảng, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển toàn diện của ngành dầu khí Việt Nam.
Ngày 20/8/1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn Quyết nghị số 33-QN/QH/K5 thành lập Tổng cục Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam. Hơn 10 ngày sau, căn cứ vào các nghị quyết và quyết nghị trên, ngày 3/9/1975, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 170/CP về việc thành lập Tổng cục Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam. Đây có thể xem là một kỷ lục trong lịch sử xây dựng và phát triển kinh tế đất nước ta. Chỉ trong vòng 43 ngày, một đơn vị cấp tổng cục đã ra đời, nắm trọng trách xây dựng một ngành kinh tế hoàn toàn mới mẻ, mang tính kỹ thuật cao và đặc thù, trong khi kinh nghiệm, tiềm lực của chúng ta gần như bằng không và đất nước còn bộn bề công việc sau chiến tranh.
Quyết tâm, khát vọng xây dựng và phát triển kinh tế, tập trung ngay lập tức vào tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí của Đảng và Chính phủ đã được nêu rõ trong Nghị quyết 244: “Nhanh chóng hình thành một nền công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, bao gồm cả thăm dò, khai thác, vận chuyển, lọc dầu, hóa dầu, cơ khí phục vụ ngành dầu khí …”. Với tầm nhìn xa, Nghị quyết còn khẳng định: "Trong quá trình hợp tác, chúng ta phải giữ vững chủ quyền quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, nhanh chóng tăng cường tiềm lực của mình, tiến tới tự lực ở mức cao nhất có thể".
|
Người lao động tại Trung tâm Điều độ Khí Việt Nam |
Để hiện thực hóa mục tiêu trên, trước yêu cầu cấp bách về tìm kiếm thăm dò dầu khí, Đảng đã lập tức cử những tướng lĩnh quân đội dày dạn kinh nghiệm trận mạc, có ý chí và tinh thần kỷ luật cao cùng với các đơn vị làm kinh tế của quân đội về xây dựng ngành dầu khí.
Cho đến bây giờ, các thế hệ lão thành của ngành dầu khí không thể quên những ngày cuối năm 1975, hàng nghìn người lính đã cây súng để xắn tay áo xây dựng một nền công nghiệp mới mẻ. Những người lính ấy hoàn toàn không có một chút vốn kiến thức nào về dầu khí, tay nghề cơ khí, kỹ thuật cũng hoàn toàn không. Ấy thế mà, chính họ đã xây dựng nên những khu căn cứ dịch vụ cho ngành dầu khí, đã xông ra biển để tìm kiếm thăm dò; tranh thủ từng ngày, từng giờ học hỏi ở các chuyên gia nước ngoài. Những người đi tìm lửa thế hệ ấy đã cống hiến toàn bộ tuổi trẻ, sức lực, hoài bão của mình để theo đuổi mục tiêu: Tìm dầu để làm giàu cho Tổ quốc.
Đến những năm cuối thập niên 70, với quyết tâm kiên trì xây dựng ngành dầu khí làm động lực để công nghiệp hóa và phát triển nền kinh tế, Bộ Chính trị ký hiệp định hợp tác chiến lược với Liên Xô, trong đó có việc liên doanh hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí trên một số lô ở thềm lục địa phía nam Việt Nam. Thành quả đầu tiên là sự ra đời của Vietsovpetro cùng các hoạt động thăm dò dầu khí ở bể Cửu Long, bể Nam Côn Sơn.
Vững tin từ trong gian khó
Năm 1988, việc phát hiện và tổ chức khai thác hiệu quả với sản lượng cao tầng dầu trữ lượng lớn trong đá móng nứt nẻ mỏ Bạch Hổ đã đi vào lịch sử khai thác dầu khí thế giới. Chúng ta cũng không thể quên được chỉ trước đó một năm, các giếng dầu mới có được của Vietsovpetro đã bắt đầu suy giảm sản lượng đến mức độ không thể tưởng tượng nổi. Hàng loạt chuyên gia phía Liên Xô bị điều chuyển, hoặc xử lý kỷ luật vì kết quả hoạt động quá kém của Liên doanh. Thậm chí người ta đã nghĩ đến việc giải thể Vietsovpetro. Nhưng lãnh đạo Đảng, Nhà nước vẫn giữ niềm tin và sự kỳ vọng vào người làm dầu khí, vẫn luôn chia sẻ, động viên để anh em vững tâm suy nghĩ, tìm tòi, giải đáp những vấn đề khó về khoa học kỹ thuật. Kết quả, lần đầu tiên trên thế giới, người làm dầu khí Việt Nam đã tìm ra dầu ở tầng đá móng. Thành công này không chỉ cứu sống Vietsovpetro, mà còn mở ra một chương mới cho toàn bộ công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Ngay sau sự kiện phát hiện bước ngoặt này, ngày 7/7/1988, Bộ Chính trị đã lập tức ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2000, khẳng định quan điểm đổi mới trong hoạt động dầu khí, tạo ra một chân trời rộng mở cho ngành dầu khí Việt Nam lớn mạnh. Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2005, ngành dầu khí đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế sâu rộng, đưa sản lượng và trữ lượng dầu khí tăng nhanh.
Năm 2006, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 41-KL/TW về Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến 2025, cùng với việc phê duyệt thành lập Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam của Chính phủ. Tập đoàn tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử theo ý nguyện của Bác Hồ - hoàn chỉnh và hiện đại hóa chuỗi công nghệ dầu khí, đồng bộ từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác đến phát triển công nghiệp khí-công nghiệp điện, chế biến và dịch vụ dầu khí chất lượng cao; với sự ra đời các trung tâm sản xuất điện như Nhơn Trạch, cụm công nghiệp Khí-Điện-Đạm Cà Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất…
|
Hoạt động khai thác dầu khí trên biển |
Trong giai đoạn này, nhờ có sự ủng hộ của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhiều dự án, công trình dầu khí đã được triển khai và đang có đóng góp lớn cho đất nước. Như việc xây dựng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, đã có không ít ý kiến phản đối, đã có nhiều người nghi ngờ về trình độ của người làm dầu khí khi làm nhà máy chế biến lọc dầu, nhưng lúc đó Bộ Chính trị, Chính phủ và cá nhân cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã luôn đứng bên cạnh người làm dầu khí. Chính quyết tâm, ý chí của ông đã khiến người làm dầu khí càng thêm tin tưởng, quyết tâm để xây dựng nhà máy.
Hay việc xây dựng Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Nhà máy Khí Dinh Cố, Cụm Khí-Điện-Đạm Cà Mau, Nhà máy Thủy điện Hủa Na, Đak-đrinh... quá trình triển khai cũng luôn vấp phải sự phản đối, nghi ngờ không nhỏ. Nhưng vượt lên trên tất cả, với sự tin tưởng, ủng hộ của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lần lượt những công trình, dự án trên đã hoàn thành, đi vào hoạt động. Nếu không có sự tin tưởng, ủng hộ đó, nếu không có ai dám dấn thân, xông pha nơi tuyến đầu "hiểm nguy" thử thách, ngành công nghiệp dầu khí không biết sẽ đi đến đâu?
Và càng không thể không nhắc đến Dự án Biển Đông 01 khai thác khí và condensate ở cụm mỏ Hải Thạch-Mộc Tinh, “con gà đẻ trứng vàng” cho kinh tế đất nước với hơn 957 triệu USD nộp vào ngân sách sau gần 8 năm khai thác (tính đến 28/6/2021). Nhưng không nhiều người biết, dự án này khai thác ở khu vực có cấu tạo địa chất vào loại khó và nguy hiểm nhất trên thế giới bởi áp suất khí cực cao và nhiệt độ quá lớn. Khai thác dầu khí ở đây khó và nguy hiểm đến nỗi tập đoàn dầu khí hàng dầu thế giới BP của Anh đã phải từ bỏ sau khi đã đổ 500 triệu USD vào dự án với 9 năm thăm dò, nghiên cứu. Nhưng với sự ủng hộ quyết liệt, mạnh mẽ của Chính phủ, sự đồng hành của các bộ, ngành, trên hết là sự tin tưởng vào trí tuệ, bản lĩnh của người làm dầu khí, dự án đã thành công.
Phải có một khát vọng về tương lai hùng cường
Bằng tinh thần “Đổi mới quyết liệt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết định kịp thời” với phương châm “Đồng tâm hiệp lực, hiện đại, hội nhập, tăng tốc phát triển”, doanh thu của Petrovietnam giai đoạn 2006-2010 đã tăng bình quân 5 năm đạt trên 22%/năm, tương đương 18-20% GDP cả nước; nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân 14%/năm, chiếm trung bình 28-30%/năm tổng thu ngân sách Nhà nước. Giai đoạn 2011-2015, tập đoàn trở thành đơn vị kinh tế chủ lực của đất nước với quy mô, tổng tài sản lớn nhất trong các ngành kinh tế, đóng góp cho ngân sách Nhà nước vượt 214.100 tỷ đồng, tương đương khoảng 10,1 tỷ USD so với kế hoạch.
Nhưng cũng chính vào giai đoạn này, Đảng và Nhà nước đã nhìn ra những vấn đề nội tại của Petrovietnam, ngành dầu khí liên tiếp đối mặt với nhiều khó khăn do giá dầu biến động rất khó lường, các yếu kém trong công tác quản trị, điều hành sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, trong công tác cán bộ; công tác kiểm tra giám sát chưa hiệu quả… mà nếu chậm thay đổi phương thức thể chế về quản lý sẽ là rào cản ngăn bước phát triển của tập đoàn trong tương lai.
Trong bối cảnh đó, ngày 23/7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035, mà trong đó, điểm cực kỳ quan trọng là Nghị quyết đã nêu định hướng phát triển cho tập đoàn: "Phát triển ngành dầu khí Việt Nam theo nguyên tắc kinh tế thị trường; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường tính chủ động trong quản trị sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp". Nghị quyết số 41-NQ/TW đã mở ra một vận hội mới cho sự phát triển của tập đoàn, động lực lớn lao đối với niềm tin và khát vọng của mỗi người dầu khí.
Tiếp đó, ngày 16/10/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Dầu khí, tạo ra một khuôn khổ pháp lý quan trọng bảo đảm cho ngành dầu khí phát triển mạnh mẽ và ổn định theo hướng hiện đại, tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế.
Petrovietnam - hạt nhân nòng cốt của ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam, đến nay đã xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ chuỗi công nghiệp dầu khí, từ khâu thượng nguồn, trung nguồn, đến hạ nguồn. Hoạt động của ngành dầu khí hiện nay đang có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, là động lực phát triển tại nhiều vùng, địa phương. Các sản phẩm chủ lực của Petrovietnam như điện, phân đạm, xăng, dầu, khí... đang góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực cho đất nước, tạo nền tảng cho nhiều ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế phát triển.
|
Toàn cảnh Nhà máy Lọc dầu Dung Quất |
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, 10 tháng năm 2021, Petrovietnam đã có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách Nhà nước là 75.400 tỷ đồng, vượt 21% kế hoạch năm 2021 và vượt 23% so với cùng kỳ năm 2020. Trong khi nhiều doanh nghiệp lớn gặp khó khăn, thua lỗ bởi ảnh hưởng của đại dịch, những đóng góp quan trọng của Petrovietnam đã thể hiện nỗ lực rất lớn của tập thể lãnh đạo Petrovietnam, các đơn vị thành viên và gần 6 vạn người lao động dầu khí.
Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta thấy rằng, ngành dầu khí, mà chủ lực là Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, trong các bước ngoặt lịch sử đều có dấu ấn và sự chỉ đạo, định hướng kịp thời, trên hết là niềm tin tuyệt đối của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Chính sự tin tưởng trong mọi thời điểm đã giúp Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam vững bước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.