Lịch sử hình thành
Vua Đồng Khánh tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đường, con trai cả của hoàng tử Kiên Thái Vương ( Nguyễn Phúc Hồng Cai , 1845 – 1876 ) người đã may mắn sinh thành ba vị vua : vua Kiến Phúc ( 1883 – 1884 ),vua Hàm Nghi ( 1884 – 1885 ) và vua Đồng Khánh ( 1885 – 1889 ). Ở Huế thuở ấy có câu ca dao nói về vương niệm của ba ông vua này:
” Một nhà sinh đặng ba vua
vua còn, vua mất, vua thua chạy dài “
Trong các anh em, Đồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ sau khi vua Hiệp Hòa băng hà, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập hoàng tử Ưng Đăng ( con nuôi vua Tự Đức, em thứ 2 của Ưng Đường ) lên làm vua, ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc băng hà và em trai là Ưng Lịch được kế vị đăt niên hiệu là Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi trị vì được 1 năm thì kinh đô thất thủ phải dời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra Sơn Phòng – Hà Tĩnh phát chiếu Cần Vương kháng Pháp. Chính phủ bảo hộ và triều thần đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống đó là Đồng Khánh. Đồng Khánh làm vua được 3 năm thì băng hà vào giữa tuổi 25, nhà vua không ngờ mình mất sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Cái gọi là lăng Đồng Khánh hiện hữu thực chất là nơi vua Đồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này chưa đựng nhiều trắc trở cũng như số phận đầy bi kịch của ông vua chết yểu này.
Khi vừa lên ngôi, vua Đồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở làng Cư Sĩ chưa có điện thờ nên sai bộ công dựng điện Truy Tư ở cạnh đó để thờ cha. Điện Truy Tư khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó thì hoàn tất về căn bản. Vua Đồng Khánh rước bài vị của Kiến Thái Vương về thờ trong điện đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh công trình thế nhưng trong khi điện Truy Tư đang tiếp tục được hoàn thiện thì vua Đồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua kế vị là Thành Thái ( 1889 – 1907 ) lên ngôi trong 1 bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm ,đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây và toàn bộ lăng tẩm được gọi tên là Tư lăng.
Tháng 8 năm 1917 sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Định ( 1916 – 1925, con trai cả vua Đồng Khánh ) đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái đình, Bi đình đến Bửu thành và Huyền cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Định đến tháng 7 năm 1917 mới hoàn thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả, Hữu tùng viện và Tả, Hữu tùng tự tiếp tục được tu sửa cho đến năm 1923.
Quá Trình xây dựng lăng Đồng Khánh
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Đồng Khánh mang dấu ấn của 2 trường phái kiến trúc ở vào 2 thời điếm khác nhau. Nếu phong cách kiến trúc cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Đức và phong cách xây dựng hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Định sau này thì lăng Đồng Khánh là một bước trung chuyển, sự tồn tại khá biệt lập của 2 khu vực lăng và tẩm càng làm rõ thêm điều này.
Khu vực tẩm điện
Khu vực tẩm điện quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án
Ở khu vực tẩm điện nhìn tổng thể các công trình vẫn mang đậm dáng xưa với lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc, chính điện và các nhà cửa phụ thuộc vẫn những hàng cột sơn song thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh, tứ quý quen thuộc.
Đáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của Việt Nam. Trên các đối bản của nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước bằng sơn mài ghép khảm và chạm nổi. Đặc biệt trong chính điện còn có 24 đối bản vẽ các bức tranh trong điển tích ” Nhị thập tứ hiếu ” kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa, phải chăng do làm vua trong một xã hội mà trật tự, kỉ cương nho giáo trở nên lỏng lẻo, thiết chế ” Quân Sư Phụ ” không được tôn trọng, luân lý bị đảo lộn nên nhà vua hăng mong mỏi tái lập một xã hội mới với đầy đủ tôn ti phong kiến cũ và bắt đầu từ ý nghĩa giáo dục của những bức tranh đó. Điều này khó có thể thực hiện được khi bản thân Đồng Khánh cũng chỉ là một cái bóng trên ngai vàng, ngay cả việc xuất hiện những bức phù điêu bằng đất nung trên các cổ diêm, bờ nóc, bờ quyết của điện Ngưng Hy với các đồ án trang trí rất dân dã như : ngư ông đắc lợi, gà chọi, cầm kỳ thi tử, hoa quả, động vật… cũng phần nào minh chứng cho điều này. Bởi lẽ trong lăng tẩm các vua tiền nhiệm hoàn toàn vắng bóng sản phẩm mỹ thuật bằng đất nung cũng như các đồ án trang trí dân gian vì giai cấp phong kiến coi đó là tầm thường, xa lạ với nghệ thuật cung điện. Chỉ đến khi thiết chế xã hội bớt khắc nghiệt thì người nghệ sĩ dân gian mới lồng vào trong nền mỹ thuật cung đình những sáng tạo của giai cấp mình.
Bản thân điện Ngưng Hy với cấu trúc chữ ” Tam ” phát triển từ kiến trúc ” trùng thiềm điệp ốc ” cũng là một nét lạ, tuy nhiên việc xuất hiện cửa kính nhiều màu và 2 bức tranh cổ mô tả cuộc chiến tranh Pháp – Phổ thời Napoleon và hàng loạt hiện vật hiện đại như ba-toong, lọ nước hoa, đồng hồ bên cạnh các hiện vật cổ tạo cho du khách một cảm giác khó chịu.
Khu vực Lăng Mộ
Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, lấy núi Thiên Thai làm tiền án.Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy.
Ngược lại, với phong cách truyền thống trong kiến trúc khu vực tẩm điện, kiến trúc lăng mộ hầu như Âu hóa hoàn toàn từ đặc trưng kiến trúc, mô-tip trang trí đến vật liệu xây dựng. Bi đình là sự biến thể của kiến trúc Châu Âu pha trộn với kiến trúc Á Đông, tượng Quan viên cao, gầy đắp bằng xi măng và gạch thay cho tượng đá, ngói ardoise thay cho ngói hoàng lưu ly, gạch ca-rô thế cho gạch bát tràng.
Nét Á Đông lưu giữ một cách hiếm hoi trong khu vực mộ có lẽ là những chữ thọ trang trí trên bình phong trước mộ để cầu mong sự trường tồn cho Vương nghiệp của vua ở Âm phật bù lại cho chuỗi ngày làm vua ngắn ngủi trên Dương thế. Phía sau ngôi mộ có 2 con chép đắp bằng xi măng, bên trên có 2 con rồng chầu mặt trời như muốn nhăn gửi với hậu thế rằng quá trình trị vì của vua cũng gian nan vất vả như cá chép hóa rồng phải vượt vũ môn vậy.
Nhìn chung lăng Đồng Khánh được xây dựng trong một buổi giao thời của lịch sử nên nền kiến trúc Á Đông phần nào phôi pha mờ nhạt để chuyển tiếp đến kiến trúc hiện đại. Người nghệ sĩ kiến tạo khu lăng tẩm bị đặt giữa sự chọn lựa và tiếp nhận kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định họ đã thành công trong việc thử nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Đồng Khánh như hòa hợp hơn với phong cảnh thôn dã trong vùng đó.