Thực hiện Nghị quyết số 08/2016/NQ-HĐND ngày 11/8/2016 của HĐND tỉnh về “Đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em (BVCSTE) tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2016 – 2020”, UBND tỉnh ban hành quyết định phê duyệt Đề án để triển khai Nghị quyết 08. Ngoài ra, hàng năm UBND tỉnh ban hành các Kế hoạch, văn bản chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như: tổ chức Tháng hành động vì trẻ em, Tết Trung thu, tăng cường phòng, chống tai nạn thương tích, đuối nước trẻ em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em… Căn cứ các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành, đoàn thể và địa phương đã xây dựng các Kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, qua đó đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh. Trong 5 năm thực hiện Đề án đã đạt được nhiều kết quả trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật... huy động các nguồn lực xây dựng quỹ bảo trợ trẻ em với trên 35 tỷ đồng hỗ trợ cho hơn 66.000 lượt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Đến nay, có 12/14 chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 08/2016/NQ-HĐND đạt và vượt đó là: Tỷ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT và được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế đạt 100% (mục tiêu đề ra là 100%); Tỷ lệ trẻ em bị ảnh hưởng HIV/AIDS được cung cấp các dịch vụ về y tế đạt 100% với 165/165 trẻ (mục tiêu đề ra là 100%); Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn 7% (mục tiêu đề ra là dưới 10%); Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi còn 9,6% (mục tiêu đề ra là dưới 20%); Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển đạt 95,47% với 4.091/4.285 trẻ em (mục tiêu đề ra là 95%); Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (khuyết tật, mồ côi, bị bỏ rơi) đủ điều kiện được thực hiện các chính sách về phúc lợi xã hội do Nhà nước quy định đạt 100% với 2.482 trẻ (mục tiêu đề ra là 100%); Tỷ lệ trẻ em lao động trái quy định của pháp luật khi có thông báo, phát hiện được hỗ trợ, can thiệp kịp thời đạt 100% (mục tiêu đề ra là 100%); Tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100% với 19.722 học sinh/723 lớp (mục tiêu đề ra là 100%); Tỷ lệ trẻ em 3-5 tuổi được chăm sóc và giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non với 53.005/57.020 trẻ đạt 92,95 % (mục tiêu đề ra là 90 - 100%); Có 13.500 học sinh được dạy bơi và các kỹ năng an toàn trong môi trường nước vượt mục tiêu đề ra (mục tiêu đề ra có 12.500 học sinh); Tỷ lệ xã, phường, thị trấn có điểm vui chơi cho trẻ em là 60,68% với 88/145 xã, phường (mục tiêu đề ra là 60%); Tỷ lệ xã, phường, thị trấn thành lập Quỹ Bảo trợ trẻ em đạt 56,55% với 82/145 xã, phường (mục tiêu đề ra là 50%). Có 2 chỉ tiêu chưa đạt là Tỷ lệ đăng ký khai sinh cho trẻ em và chỉ tiêu Xã, phường, thị trấn được công nhận phù hợp với trẻ em.
Công tác BVCSTE giai đoạn 2021-2025 đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, hạn chế tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị tổn hại bởi các hành động xâm hại, bóc lột và sao nhãng. Trợ giúp phục hồi kịp thời cho trẻ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ bị tổn hại, tạo cơ hội để các em tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển. Xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em đồng bộ và hoạt động có hiệu quả.
Trong đó mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là đảm bảo 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế và được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế; 100% trẻ em bị ảnh hưởng HIV/AIDS được cung cấp các dịch vụ về y tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 9%; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 7%. Trên 95% trẻ em từ 3 đến 5 tuổi được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non. Tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp một đạt 100%, trong đó quan tâm đến trẻ em người dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn có điểm vui chơi cho trẻ em đạt 70%. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển đạt trên 95%; tỷ lệ trẻ em bị tai nạn thương tích năm sau thấp hơn so với năm trước; trẻ em có nguy cơ xâm hại/bạo lực, bóc lột, sao nhãng được quản lý và có các biện pháp can thiệp kịp thời. 100% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (tàn tật, mồ côi, bị bỏ rơi) đủ điều kiện được thực hiện các chính sách về phúc lợi xã hội do Nhà nước quy định. 100% xã/phường/thị trấn đăng ký xây dựng và duy trì trên 80% xã/phường/thị trấn đạt tiêu chuẩn xã/phường/thị trấn phù hợp với trẻ em. 95% trẻ em sinh ra được làm giấy khai sinh đúng hạn. 100% cán bộ cấp tỉnh, cấp huyện, cán bộ cấp xã và cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được nâng cao năng lực về quản lý và thực hiện các chương trình, kế hoạch về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Trên 60% các xã, phường, thị trấn xây dựng Quỹ bảo trợ trẻ em.
Các đơn vị nhặn Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh
Về kết quả thực hiện "Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020" trên địa bàn tỉnh mặc dù còn một số chỉ tiêu không đạt, nhưng nhìn chung đã tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của hệ thống chính trị, xã hội, gia đình và bản thân người phụ nữ về vai trò, vị trí của phụ nữ và công tác phụ nữ trong thời kỳ mới; công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bố trí cán bộ nữ nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ người dân tộc thiểu số được quan tâm hơn; vị thế của phụ nữ ngày càng được khẳng định và nâng cao hơn trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Để công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ nói chung và thực hiện các mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đạt được nhiều kết quả trong giai đoạn 2021-2030, các địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao chất lượng và số lượng cán bộ nữ trong diện quy hoạch của đơn vị; nâng cao tỷ lệ đảng viên là nữ; có kế hoạch bố trí, phân công công tác hợp lý; ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng để cán bộ nữ có điều kiện phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, có triển vọng để tạo nguồn cho những vị trí lãnh đạo cao hơn trong đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý đương chức các cấp nhằm tiếp tục nâng cao tỷ lệ nữ tham gia vào lĩnh vực chính trị ở địa phương. Bên cạnh đó là đưa các chỉ tiêu về phát triển phụ nữ và bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bổ sung chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ học tập, phấn đấu, rèn luyện để trưởng thành và nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là cán bộ nữ trẻ, cán bộ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số...
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, UVTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thanh Bình cho rằng, bằng nhiều hình thức, các cấp, ngành đã có nhiều nỗ lực dành sự quan tâm trong việc thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Trong thời gian tới cần chú trọng tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, năng lực trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới để tăng cường sự nhận thức của toàn xã hội, gắn với lồng ghép với việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh tại cơ sở. Bên cạnh đó là đổi mới công tác truyền thông, có hình thức tuyên truyền hợp lý, tăng cường ứng dụng CNTT, truyền thông số, giúp người dân tiếp cận một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Giảm thiểu đến mức tối đa những tổn hại đối với trẻ em bằng cách tác động đến những người có liên quan từ gia đình, nhà trường, xã hội. Xây dựng cơ chế phối hợp; phân công, phân nhiệm rõ ràng... để giải quyết những trường hợp cụ thể, điển hình để thực hiện tốt nhiệm vụ BVCSTE và bình đẳng giới.
Dịp này, 3 tập thể và 9 cá nhân đã được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh vì những thành tích trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; 10 tập thể và 13 cá nhân đã được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh vì những thành tích trong công tác về bình đẳng giới thời gian qua.