I.Tình hình thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ quý I năm 2022
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp các ngành đối với công tác Dân số-KHHGĐ tiếp tục tăng cường, sự quản lý, điều hành ngày càng đi vào nề nếp, hoàn thiện để đảm đương nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Sự phối kết hợp của các ban ngành đoàn thể ngày càng chặt chẽ và đồng bộ hơn.
2. Công tác tổ chức bộ máy tại cơ sở
Tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác Dân số - KHHGĐ từ cấp xã đến cấp cơ sở và đội ngũ CTV được kiện toàn củng cố ,có 1 cán bộ chuyên trách được bố trí làm công tác DS- KHHGĐ tại Trạm Y tế, và 8 CTV được phân bố ở 7 thôn (Thôn Đông Hồ có 2 CTV) làm công tác tuyên truyền về nội dung DS-KHHGĐ.
3. Triển khai các kế hoạch hành động đến năm 2030
Căn cứ kế hoạch số 140/KH-UBND ngày 09/12/2020 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 11/KH-UBND ngày 06/01/2021 của UBND xã về Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 của xã Quảng Thái;
Căn cứ kế hoạch số 127/KH-UBND ngày 22/10/2020 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 12/KH-UBND ngày 06/01/2021 của UBND xã về Kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025 của xã Quảng Thái thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 33/KH-UBND ngày 05/02/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 38/KH-UBND ngày 15/03/2021 của UBND xã về triển khai Đề án tăng cường tư vấn và cung cấp dịch vụ DS-KHHGĐ cho vị thành niên, thanh niên giai đoạn 2021- 2025;
Căn cứ kế hoạch số 98/KH-UBND ngày 07/07/2020 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 72/KH-UBND ngày 05/4/2021 của UBND xã về triển khai Đề án tiếp tục đẩy mạnh, mở rộng xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai, hàng hóa và dịch vụ KHHGĐ, sức khỏe sinh sản đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 31/03/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 73/KH-UBND ngày 05/4/2021 của UBND xã về việc thực hiện Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi của xã Quảng Thái đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 69/KH-UBND ngày 31/03/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 74/KH-UBND ngày 05/4/2021 của UBND xã về triển khai thực hiện Chương trình Truyền thông Dân số của xã Quảng Thái đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 108/KH-UBND ngày 27/5/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 10/6/2021của UBND xã về thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030 của xã Quảng Thái;
Căn cứ kế hoạch số 95/KH-UBND ngày 06/5/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 102/KH-UBND ngày 10/6/2021 của UBND xã về kế hoạch hành động thực hiện Chương trình củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ của xã Quảng Thái đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 158/KH-UBND ngày 11/11/2021 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 140/KH-UBND ngày 12/11/2021 của UBND xã về thực hiện Chương trình củng cố và phát triển hệ thống thông tin chuyên ngành dân số trên địa bàn xã Quảng Thái đến năm 2030;
Căn cứ kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 07/3/2022 của ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền, ủy ban nhân dân xã xây dựng Kế hoạch số 66/KH-UBND ngày 15/03/2022 của UBND xã về Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số các cấp giai đoạn 2021-2030;
II. Kết quả thực hiện các hoạt động chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ
1.Chương trình đảm bảo hậu cần phương tiện tránh thai và cung cấp dịch vụ KHHGĐ cho khách hàng có nhu cầu:
Các hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ được tổ chức thường xuyên tại Trạm Y tế, nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu cho khách hàng. Bên cạnh công tác đáp ứng dịch vụ thường xuyên, thì việc thực hiện kế hoạch chỉ đạo của Trung tâm y tế huyện,cũng như việc tham mưu xây dựng kế hoạch và lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ của chương trình Đề án biển có hiệu quả, gắn với việc tuyên truyền vận động, tư vấn cung cấp dịch vụ KHHGĐ, phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản, khám thai, khám phụ khoa và chỉ định điều trị phụ khoa cho khách hàng. Xây dựng triển khai chiến dịch đợt I năm 2022 vào ngày 8/4/2022 sắp tới và cũng đã triển khai cho đội ngũ CTV tuyên truyền rộng rãi ở thôn nhằm huy động đối tượng tham gia tích cực trong đợt chiến dịch sắp tới.
Công tác hậu cần cung cấp phương tiện tránh thai phi lâm sàng được CTV đáp ứng đầy đủ cho khách hàng. Tiếp tục triển khai chương trình TTXH bao cao su nhãn hiệu Night happy và thuốc uống tránh thai cùng nhẫn hiệu trên địa bàn toàn xã. Trong 3 tháng qua vẫn tiếp tục tuyên truyền tiếp thị thuốc uống và Bao cao su đến từng đối tượng. Nhu cầu sử dụng thuốc uống tránh thai của khách hàng ở địa bàn xã Quảng Thái còn thấp và số lượng đối tượng chủ động mua ngoài nhiều nên số lượng TTXH về thuốc uống và BCS đạt chưa cao so với kế hoạch đề ra.
2.Các chương trình tầm soát các dị tật bẩm sinh và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh:
a.Mô hình tư vấn và khám sức khoẻ tiền hôn nhân:
Ký hợp đồng trách nhiệm ngay từ đầu năm với Xã đoàn Quảng Thái để triển khai các hoạt động, tổ chức sinh hoạt CLB tiền hôn nhân đợt I và lồng ghép cung cấp thông tin chăm sóc SKSS-KHHGĐ cho VTN-TN tại Nhà cồng đồng thôn Đông Hồ có 32 lượt TN-VTN tham gia buổi sinh hoạt.
b.Đề án sàng lọc trước sinh và sơ sinh:
Tổ chức tư vấn trực tiếp về nội dung SLTS và giới thiệu lên tuyến trên khám và chuẩn đoán SLTS cho 10 phụ nữ mang thai thông qua các buổi TCMR tại Trạm Y tế xã.
Đến tại thời điểm tháng 3/2022 có 11 trẻ em sinh, trong đó có 2 trẻ sơ sinh được lấy máu gót chân tại các cơ sở y tế tuyến trên .
Phối hợp với đài truyền thanh xã tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh xã các nội dung về SLTS và SLSS.
c.Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh:
Ngay từ đầu năm tiến hành ký hợp đồng trách nhiệm với Hội LHPN xã, hội Nông dân xã và xây dựng kế hoạch hoạt động để tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình.
Đề án đã được thành lập từ năm 2013, đến năm 2022 vẫn tiếp tục duy trì và đang triển khai hoạt động tại xã. Đến tại thời điểm chưa tổ chức được buổi sinh hoạt CLB Phụ nữ không sinh con thứ 3 trở lên giúp nhau phát triển kinh tế nào.Tiếp tục xây dựng kế hoach.
Hợp đồng truyền thanh và phát bài tuyên truyền trên đài truyền thanh xã.
d.Đề án chăm sóc Người cao tuổi:
Xây dựng quy chế hoạt động, kế hoạch hoạt động từ đầu năm để tiếp tục các hoạt động của đề án. Tư vấn trực tiếp về nội dung Dân số, chăm sóc sức khở người cao tuồi cho các cụ tham gia khám sức khỏe định kỳ tại trạm. Có 86 người cao tuổi được tư vấn chăm sóc sức khỏe, DS-KHHGĐ và khám sức khỏe định kỳ tại trạm đạt 10,38%.
3.Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chuyển đổi hành vi sinh sản,đặc biệt chú trọng đến địa bàn có địa hình khó khăn,địa bàn thuộc vùng đầm phá và địa bàn có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao.
Tập trung tuyên truyền chính sách Dân số - KHHGĐ lồng ghép với các nội dung của Y tế chủ đề mà đối tượng quan tâm như: Chăm sóc phụ nữ trước sinh và sơ sinh, khám thai định kỳ, chế độ dinh dưỡng cho các bà mẹ mang thai và trẻ nhỏ..v.v.Phối hợp với phòng DS-KHHGĐ huyện tổ chức tuyên truyền với các nội dung đa dạng và phong phú, trong đó chú ý đến các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ,đối tượng có nguy cơ sinh con thứ 3 trở lên.
Bên cạnh đó chú trọng công tác truyền thông chuyển đổi hành vi bền vững đến địa bàn có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao.
Tiếp tục triển khai lồng ghép, mở rộng mô hình chính sách Dân số vào quy ước làng văn hóa ,hướng tới việc xây dựng mô hình gia đình ít con ,khỏe mạnh ,tiến bộ,bình đẳng,hạnh phúc và phát triển bền vững. Xây dựng mô hình “Cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên” giai đoạn 2021-2024. Đến tại thời điểm còn duy trì 4 thôn đó là Đông Hồ, Lai Hà và Nam Giảng, Trằm Ngang. 3 thôn còn lại Thôn Tây Hoàng, Trung Làng, Trung Kiều tiếp tục triển khai đăng ký.
4.Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu DS-KHHGĐ:
- Tổng số hộ: 1.273
- Tổng số nhân khẩu thực tế thường trú: 4.766, trong đó nữ: 2.436
- Tổng số sinh đến tháng 3/2022: 11, trong đó nam 9, nữ 2, tỷ số giới tính khi sinh 450.
- Số sinh là con thứ ba trở lên là 4, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên là 36,4%
- Tình hình thực hiện các BPTT hiện đại so với kế hoạch năm 2022:
STT
|
BPTT
|
Kế hoạch
|
Thực hiện
|
Tỷ lệ %
|
1
|
Dụng cụ tử cung
|
68
|
0
|
0
|
2
|
Thuốc cấy
|
5
|
0
|
0
|
3
|
Thuốc tiêm
|
20
|
5
|
25
|
4
|
Thuốc uống
|
70
|
69
|
99
|
5
|
Bao cao su
|
135
|
119
|
88,1
|
Tổng cộng
|
298
|
193
|
64,8
|
Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng BPTT (CPR): 454/670 x 100 = 67,76%
III. Khó khăn tồn tại và nguyên nhân
1 .Khó khăn:
- Cán bộ đảng viên vi phạm chính sách Dân số-KHHGĐ có xu hướng ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến việc tuyên truyền vận động cho người dân.
- Nhận thức của một bộ phận nhân dân và cán bộ về công tác Dân số-KHHGĐ chưa cao. Việc duy trì, xây dựng và thực hiện mô hình “Cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên’’ chưa được quan tâm đúng mức, còn mang tính hình thức và không hiệu quả.
- Việc triển khai thực hiện xử lý vi phạm chính sách DS-KHHGĐ theo hương ước, quy ước làng văn hóa chưa nghiêm túc, thiếu đồng bộ, còn lúng túng ảnh hưởng đến việc tuyên truyền vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
- Công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền của đội ngũ CTV chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, chưa tạo được chuyển biến sâu sắc về ý thức và tâm lý thực hiện chính sách dân số.
- Kinh phí thực hiện chương trình DS-KHHGĐ cắt giảm nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện.
2 .Nguyên nhân
- Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn quá cao ở một số thôn, trong đó tình trạng Cán bộ đảng viên vẫn còn vi phạm chính sách DS-KHHGĐ nhất là ở đội ngũ cán bộ giáo viên.
- Do ảnh hưởng của dịch Covid - 19 nên việc triển khai đợt tăng cường truyền thông DS-KHHGĐ của năm 2021 bị gián đoạn, dẫn đến công tác tuyên truyền vận động triển khai chưa kịp thời, làm ảnh hưởng đến kết quả đợt tăng cường nên đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sinh con thứ 3 trở lên cao.
-Tỷ lệ áp dụng các biện pháp tránh thai lâm sàng đạt thấp, là do người dân vẫn còn tư tưởng tự kế hoạch để không ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Công tác tuyên truyền vận động ở cấp cơ sở còn thiếu chiều sâu, chưa mang tính chất thu hút và thuyết phục vì trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền chưa đầy đủ, còn thô sơ nên chưa gây ấn tượng nhiều cho đối tượng khi tham gia tư vấn.
- Nhận thức về công tác dân số-KHHGĐ của một bộ phận nhân dân chưa sâu sắc,toàn diện.Ý thức cộng đồng trong việc thực hiện KHHGĐ vẫn còn hạn chế. Do vẫn còn tồn tại tư tưởng phong kiến muốn có đông con và phải có con trai để nối dõi tông đường đã ảnh hưởng không nhỏ đến một số tầng lớp nhân dân, thậm chí cả trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nên tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn còn cao.
- Việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ theo quy ước, hương ước làng văn hóa trong cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc. Đa số các thôn vẫn chưa thực hiện việc xử lý vi phạm chính sách DS-KHHGĐ theo hương ước, quy ước của làng văn hóa, nên chưa răn đe được các đối tượng vi phạm và khuyến khích các đối tượng thực hiện tốt, làm ảnh hưởng đến việc tuyên truyền vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ tại địa phương.
IV. Phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới
Tăng cường hơn nữa sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, Chính quyền và sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể thực hiện đồng bộ với trách nhiệm cao có hiệu quả trong công tác DS-KHHGĐ đến tận địa bàn cụm dân cư.
Chỉ đạo Trạm y tế xã phối hợp với thành viên BCĐ công tác DS-KKHGĐ xã, Chi bộ, ban điều hành các thôn và cộng tác viên DS-KHHGĐ các thôn để tuyên truyền các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tranh thai, trong đó chú trọng các cặp vợ chồng sinh con một bề, các cặp vợ chồng đã sinh hai con để tuyên truyền vận động nhằm hạn chế tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên.
Thực hiện việc thu thập thông tin, quản lý dữ liệu dân cư theo quy định của ngành.
Đẩy mạnh xã hội hoá công tác DS-KHHGĐ, huy động sự tham gia của cộng đồng, cá nhân đối với công tác DS-KHHGĐ.
Đẩy mạnh công tác truyền thông chuyển đổi hành vi về DS-KHHGĐ. Tiếp tục quán triệt phổ biến nội dung tinh thần các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tỉnh huyện về công tác DS-KHHGĐ đến tận cán bộ đảng viên và nhân dân.
Tiếp tục đẩy mạnh hình thức tuyên truyền, vận động chú trọng ở các địa bàn có tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên cao, các cặp vợ chồng đã có hai con chưa sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại.
Tăng cường truyền thông tư vấn trực tiếp gắn với tiếp thị xã hội các biện pháp tránh thai phi lâm sàng.
Duy trì và thực hiện các mô hình như: Mô hình “Cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên” mô hình tiền hôn nhân; mô hình sàng lọc trước sinh, sơ sinh, tuyên truyền giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh nhằm giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, nâng cao chất lượng dân số.