Tìm kiếm tin tức
DI CHÚC HỒ CHÍ MINH - NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM
Ngày cập nhật 16/08/2019

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, nhà văn hóa kiệt xuất của Đảng và dân tộc ta, trọn đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Tuy đã đi xa nhưng tình cảm, đạo đức và trí tuệ của Người vẫn mãi theo cùng dân tộc. Những lời căn dặn và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc vô cùng giản dị mà thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp, thấm đẫm tính nhân văn, có giá trị lịch sử và ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cách mạng Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. 50 năm qua, Di chúc của Người được Đảng, Nhân dân ta áp dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

1. Giá trị tư tưởng trong Di chúc Hồ Chí Minh

Về tầm nhìn chiến lược, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “với tầm nhìn của con đại bàng trên đại ngàn hùng vĩ”, Di chúc Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều vấn đề tư tưởng cơ bản, cốt lõi và sâu sắc nhưng cũng hết sức cụ thể, thiết thực và sát hợp với cách mạng Việt Nam.

1.1. Tư tưởng về xây dựng Đảng 
Thứ nhất, Hồ Chí Minh chú trọng công tác xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
Để xây dựng Đảng vững mạnh, Người rất coi trọng việc xây dựng và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Người đã nhắc nhở, dặn dò cán bộ, đảng viên: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của Nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo đó, đoàn kết thống nhất trong Đảng phải trên nguyên tắc tôn trọng và thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất vì mục tiêu lý tưởng cách mạng, vì lợi ích của giai cấp, của Đảng, của Nhân dân và toàn thể dân tộc, không phải đoàn kết thống nhất để bảo vệ lợi ích cục bộ của một bộ phận hay cá nhân, bất chấp những vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật.
Hồ Chí Minh xem đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhân tố đảm bảo cho Đảng vững mạnh, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng cách mạng. Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Thứ hai, Hồ Chí Minh chú trọng công tác tự phê bình và phê bình phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh
Hồ Chí Minh xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, tăng cường đoàn kết nội bộ. Người chỉ rõ: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự phê bình và phê bình với ý thức xây dựng, với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Người phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, đả kích, vùi dập người khác, và như vậy chỉ làm mất đoàn kết nội bộ.

Thứ ba, Hồ Chí Minh coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Trong Di chúc Bác viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng là cái gốc, cái căn bản nhất của người cách mạng. Vì Bác cho rằng sự thắng lợi hay thất bại của một cuộc cách mạng phụ thuộc trực tiếp vào bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức của đội tiên phong.
Đạo đức cách mạng luôn là một tiêu chuẩn quan trọng của mỗi cán bộ, đảng viên. Đạo đức cách mạng là tiền đề, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu cao cả của mình, là giá trị thuộc về nhân cách của mỗi con người. Suốt đời hy sinh, phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng, trung với nước, hiếu với dân là điều mấu chốt nhất, Bác viết: “Những người Cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”. Cùng với đó, Bác luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên lợi ích của bản thân mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Người khẳng định: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một phẩm chất đạo đức lớn của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi con người.

1.2. Tư tưởng về con người và giải phóng con người; chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân

Thứ nhất, tư tưởng vì con người và giải phóng con người; luôn quan tâm và chăm lo đến mọi tầng lớp người trong xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ tư tưởng của Người. Bởi mục đích cao cả và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Tình thương yêu con người là nền gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng, mọi con người, tạo nên sức mạnh vĩ đại để giải phóng dân tộc.
Lòng thương yêu con người của Bác không chỉ là sự quan tâm, tin tưởng, giáo dục động viên mà còn hành động, làm những việc thiết thực, đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của con người. Bác đã khẳng định: Chính phủ của ta là công bộc của dân, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi nhân dân lên trên hết, việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh, phải chú ý giải quyết hết những vấn đề dầu khó khăn, phức tạp đến đâu.
Bác chỉ ra rằng: người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu, có thiện và ác trong lòng, điều này phần lớn do giáo dục mà ra, thái độ của người cách mạng là phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.
Người đã căn dặn phải có một chính sách đặc biệt đối với mọi tầng lớp nhân dân đã vì Tổ quốc mà hy sinh: Theo người, đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu thì phải làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh” và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ “có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”, tức là để họ có thể tự mình làm ra tất cả, không ỷ lại, thụ động và bất lực trước hoàn cảnh khó khăn: 
Đối với nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất: Đối với nhân dân lao động nói chung Người căn dặn “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”: Đối với phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến việc bồi dưỡng, cất nhắc, giúp đỡ phụ nữ, để họ tiến bộ, bình đẳng và thật sự được giải phóng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày có thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ coi họ là “nạn nhân của chế độ xã hội cũ” và nhắc nhở Đảng, Nhà nước phải quan tâm đến họ, hướng thiện và hướng nghiệp cho họ theo tinh thần “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”: “Đối với nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Nhà nước phải vừa dùng giáo dục vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.

Thứ hai, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, chăm lo sức khỏe của nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa mới.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trách nhiệm to lớn và thường xuyên của Đảng với nhân dân là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"
Bác chỉ dẫn, dự liệu, gợi mở về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hóa trong toàn dân, toàn xã hội. Quan tâm xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị để nêu gương thuyết phục trong nhân dân. Định hướng chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, trong đó có việc mở rộng ngành nghề đào tạo nguồn nhân lực, sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới; phát triển công tác vệ sinh, y tế…
Qua lời dặn dò về việc riêng, Bác quan tâm sâu sắc những vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa mới như thực hành lối sống tiết kiệm, tránh lãng phí, chú trọng xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái...

1.3. Tư tưởng về sự nghiệp trồng người và chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về con người: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do vậy, phải có kế hoạch đẩy mạnh công tác trồng người và chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Làm được như vậy chúng ta mới có thể đào tạo, xây dựng được những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác.

Thứ nhất, công tác bồi dưỡng thế hệ cách mạng tương lai
Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Trong bồi dưỡng, đào tạo những con người kế tục sự nghiệp cách mạng phải coi trọng cả đức và tài, trong đó Người đặt lên hàng đầu là đạo đức cách mạng. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu và căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Thứ hai, công tác thanh niên
“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên" Người viết, công tác đào tạo bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện để lực lượng thanh niên sau khi đào tạo đủ sức phục vụ nhân dân.
Bên cạnh việc củng cố niềm tin của thanh niên, sinh viên vào Đảng, vào chế độ, phải tăng cường giáo dục cho họ tình cảm yêu nước nồng nàn. Yêu nước, tức là yêu độc lập của đất nước; yêu chủ nghĩa xã hội; là phải làm giàu cho gia đình và đất nước; phải trung với Đảng, với nước, hiếu với nhân dân.
Phải quan tâm giáo dục ý thức cộng đồng để mỗi cá nhân hăng say phấn đấu trong lao động, học tập và khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng, với xã hội. Đồng thời cộng đồng phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, trưởng thành của mỗi cá nhân. Sự gắn bó của cá nhân với cộng đồng và sự quan tâm của cộng đồng đối với cá nhân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn giúp thanh niên vượt qua những khó khăn, thành công trong cuộc sống, qua đó đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội.
Trong giáo dục đạo đức, lý tưởng cho sinh viên, cần kết hợp giữa giáo dục những phẩm chất truyền thống như yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần, kiệm... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, ... Có như vậy mới giúp họ khẳng định bản thân và hòa nhập vào xã hội hiện đại, đồng thời không mất gốc, vươn lên làm chủ khoa học, công nghệ.

1.4. Tư tưởng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
Trong nhiều điều căn dặn lại toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Người đã khẳng định niềm tin: “cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”; “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ”. Đó là niềm tin chính trị sắt đá của lãnh tụ Hồ Chí Minh, một niềm tin được xây dựng trên cơ sở nắm vững lý luận khoa học Mác - Lênin, cùng với sự từng trải trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Niềm tin chính trị ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh thần, nhân tố củng cố niềm tin vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Niềm tin đó đã thôi thúc nhân dân ta sôi sục ý chí quyết tâm, tạo nên một khí thế cách mạng cao chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Ngoài chiến trường, bộ đội ta thi đua giết giặc lập công; ở hậu phương, nhân dân ta đề ra và thực hiện nhiều khẩu hiệu như: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”… và cuối cùng chúng ta đã chiến thắng, Tổ quốc đã thống nhất, đồng bào Nam Bắc đã sum họp một nhà - đúng như lời trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.

1.5. Tư tưởng về tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới
Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới, sự vững mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”. Bác mong muốn khi nước nhà được độc lập, sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em, các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Những định hướng trên mở ra cho Đảng ta những nhận thức sâu sắc hơn về đường lối đối ngoại, mục tiêu, vai trò của công tác tăng cường đoàn kết quốc tế. Bác mong muốn rằng “Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.

2. Ý nghĩa định hướng cho Thanh niên Việt Nam của Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong những năm qua, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng, đạo đức, phong cách thể hiện trong Di chúc của Người nói riêng luôn được Đảng ta quán triệt trong cán bộ, đảng viên, nhằm tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới, góp phần đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Với giá trị to lớn đó, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều văn bản để quán triệt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cụ thể, ngày 07/11/2006 Bộ Chính trị (khóa X) đã ban hành Chỉ thị 06-CT/TW về “Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ngày 14/5/2011 Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và ngày 15/5/2016 Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Như vậy, có thể khẳng định, những tư tưởng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa định hướng sâu sắc cho cách mạng Việt Nam nói chung và cho thanh niên Việt Nam nói riêng được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

Một là, kiên định ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng thể hiện trong Di chúc của Hồ Chí Minh nói riêng cũng như trong đường lối của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó thể hiện sự lựa chọn sáng suốt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thời đại. 
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, bối cảnh thời đại, hợp lòng người. Sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội tiếp tục được Đảng ta thực hiện sáng tạo trong điều kiện đất nước thống nhất, hòa bình, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trung thành với mục tiêu và con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận dụng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã kết luận: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta”.
Đại hội XI (năm 2011) đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, bổ sung phát triển thành Cương lĩnh năm 2011, đã rút ra 05 bài học cơ bản và tiếp tục nhấn mạnh bài học hàng đầu là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh một lần nữa khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” và nêu lên những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời bổ sung, phát triển những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, vạch ra các phương hướng và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về bảo vệ Tổ quốc đặc biệt quan trọng của Đảng ta. Nghị quyết đã xác định hệ thống những quan điểm mang tầm chiến lược về bảo vệ Tổ quốc, trong đó, “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là một quan điểm cơ bản. Thực chất đây vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng từ trước đến nay.
Tại Đại hội XII (2016) của Đảng đã phân tích bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế, từ đó chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”.
Ngày nay, công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng đã nhận định rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó chỉ rõ: Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái… Từ đó đề ra mục tiêu và giải pháp nhằm thực hiện tốt công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam cũng như tư tưởng lớn trong Di chúc của Hồ Chí Minh. Đồng thời, không ngừng đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam.

Hai là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng Đảng, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà nhân dân đã tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta rút ra 04 bài học quý, trong đó có bài học về tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội lần thứ IV thông qua, đã được sửa đổi, bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI đều khẳng định “Đảng xem việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng”. Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng cùng nhấn mạnh: “Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình yêu thương đồng chí”. Đại hội lần thứ IX của Đảng yêu cầu: “Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm”.
Kế thừa và phát triển tư tưởng đoàn kết thống nhất trong Đảng, từ Đại hội X đến Đại hội XII đều tiếp tục thể hiện tư tưởng này với một tầm cao mới. Đặc biệt, theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” nhấn mạnh “Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp” là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Những năm gần đây, Đảng ta tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng và trong các cơ quan, đơn vị.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Ba là, không ngừng coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là định hướng trong Di chúc Hồ Chí Minh - “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện trong nội dung các văn kiện và nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội.
Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”. Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng”; và “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, được đặt lên hàng đầu để Đảng “là đạo đức, là văn minh”; trong đó, tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nội dung cần thiết, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Nghị quyết khẳng định xây dựng Đảng là một trong 06 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016 - 2020), với nội dung cơ bản là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; “Tập trung thực hiện mục tiêu: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”, ...

Bốn là, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
Đường lối này phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta, dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và đi đúng xu thế tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, tạo nên sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Việt Nam đã huy động tối đa mọi nguồn lực của dân tộc, bất kỳ già trẻ, trai gái, giàu nghèo, lớn bé đều trở thành chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, trở thành một lực lượng hùng hậu. Đồng thời, với đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn và hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước bạn bè năm châu, sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Như lời Đại tướng Văn Tiến Dũng từng nói: “Một lần nữa tôi muốn nói rằng, nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay. Và Ban lãnh đạo chúng tôi biết khai thác, biết phát huy tất cả những sức mạnh đó để chiến thắng”.
Tổng kết 15 năm đổi mới (1986 - 2000), tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định bốn bài học kinh nghiệm chủ yếu của sự nghiệp đổi mới, trong đó, bài học kinh nghiệm thứ ba là: “Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Kế thừa tư tưởng đó, Đại hội XI của Đảng (2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”.
Đại hội XII của Đảng (2016) đã khẳng định qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Bên cạnh đó, Đại hội cũng đưa ra nhiều bài học, trong đó có bài học: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Năm là, phát huy nhân tố con người; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi sự phát triển và coi việc phát huy nhân tố con người, xây dựng và phát triển văn hóa là một trong những nhiệm vụ chiến lược. Mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người đã được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề này luôn có sự khẳng định phát triển theo hướng ngày càng rõ nét và hoàn thiện hơn qua mỗi thời kỳ Đại hội.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Đại hội lần thứ VII năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội X đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người Việt Nam với nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn minh, hiện đại... Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể con người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được coi là khâu đột phá thứ hai. Đồng thời, Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”.
Kế thừa những quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, việc hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước đã trở thành mục tiêu quan trọng.
Phát huy những kết quả quan trọng đã đạt được của các kỳ Đại hội trước, nhất là từ Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI), xuất phát từ thực tiễn phát triển con người Việt Nam trong thời gian qua, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu tổng quát về xây dựng, phát triển con người tại Nghị quyết Đại hội XII như sau: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Cũng trong Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã gắn nhân tố con người với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá. Ngoài ra, yếu tố con người đề cập lần này là những con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, trách nhiệm xã hội…; việc xây dựng con người phải thông qua hoạt động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ không nói chung chung. Trong 06 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của việc phát huy nhân tố con người như: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng khẳng định việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Do đó, cần đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển toàn diện con người: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đây là quan điểm mà Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam.

Tóm lại, Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là văn kiện của một nhà chính trị lớn, tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ của một nhà văn hoá lớn, chứa đựng tình nghĩa thủy chung, tầm nhìn xa trông rộng của nhà cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc. Vì vậy, Di chúc Hồ Chí Minh luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta giữ gìn, áp dụng vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam 50 năm qua và mai sau./.

                                                                                          ThS. Nguyễn Văn Huy - Nhà xuất bản Tư pháp

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 10.527.596
Truy cập hiện tại 5.508